Chuyện người con gái Nam Xương
KIẾN THỨC
CƠ BẢN CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
I. Tác giả:
- Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), quê ở Hải Dương.
- Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỷ XVI, là thời kỳ Triều đình nhà Lê đã bắt
đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực,
gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.
- Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở
vùng núi Thanh Hoá. Đó là cách phản kháng của nhiều tri thức tâm huyết đương
thời.
II. Tác phẩm:
1. Xuất xứ: “Chuyện người con gái
Nam Xương” là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng
nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ
dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.
2. Thể loại: Truyện truyền kỳ mạn lục
(ghi chép tản mạn những truyện kỳ lạ vẫn được lưu truyền). Viết bằng chữ Hán.
3. Chủ đề: Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết
thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm thương
cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của những
phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
4. Tóm tắt: Vũ Thị Thiết (Vũ Nương)
là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Chồng nàng là Trương Sinh phải đi lính sau
khi cưới ít lâu. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng
đau ốm rồi làm ma chu đáo khi bà mất. Trương Sinh trở về, nghe lời con, nghi vợ
thất tiết nên đánh đuổi đi. Vũ Nương uất ức gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự
vẫn, được thần Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu. Sau đó Trương Sinh mới biết vợ
bị oan. ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang, người cùng làng chết đuối được Linh
Phi cứu. Khi Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc hoa vàng nhắn chàng Trương lập
đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói
vọng vào bờ lời tạ từ rồi biến mất.
5. Bố cục: 3 đoạn
- Đoạn 1:… của mình: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ
Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
- Đoạn 2: … qua rồi: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
- Đoạn 3: Còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa Vũ Nương và Phan Lang trong đội Linh Phi.
Vũ Nương được giải oan.
III. Giá trị nội dung của tác phẩm: (Giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo sâu sắc)
1. Giá trị hiện thực:
- Chuyện phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công với
chế độ nam quyền, chà đạp số phận người phụ nữ (Đại diện là nhân vật Trương
Sinh).
- Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận phụ nữ: chịu nhiều oan khuất
và bế tắc.
- Phản ánh xã hội phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa làm cho cuộc
sống của người dân càng rơi vào bế tắc.
2. Giá trị nhân đạo:
a. Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật
Vũ Nương
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ đời sống
và tính cách nhân vật.
Ngay từ đầu, nàng đã được giới thiệu là “tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư
dung tốt đẹp”. Chàng Trương cũng bởi mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin với mẹ
trăm lạng vàng cưới về.
Cảnh 1: Trong cuộc sống vợ chồng bình thường,
nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên dù chồng nàng đa nghi, đối với vợ phòng ngừa
quá sức nhưng gia đình chưa từng phải bất hoà.
Cảnh 2: Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén
rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm. Nàng “chẳng dám mong”
vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng “khi về mang theo được hai chữ bình yên, thế là
đủ rồi”. Vũ Nương cũng thông cảm cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ
phải chịu đựng. Và xúc động nhất là những lời tâm tình về nỗi nhớ nhung, trông
chờ khắc khoải của mình khi xa chồng. Những lời văn từng nhịp, từng nhịp biền
ngẫu như nhịp đập trái tim nàng - trái tim của người vợ trẻ khát khao yêu
thương đang thổn thức lo âu cho chồng. Những lời đso thấm vào lòng người, khiến
ai ai cũng xúc động ứa hai hàng lệ.
Cảnh 3: Rồi đến khi xa chồng, nàng càng chứng
tỏ và bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, nàng là người vợ hết mực
chung thuỷ với chồng. Nỗi buồn nhớ chồng vò võ, kéo dài qua năm tháng. Mỗi khi
thấy “bướm lượn đầy vườn” - cảnh vui mùa xuân hay “mây che kín núi” - cảnh buồn
mùa đông, nàng lại chặn “nỗi buồn góc bể chân trời nhớ người đi xa. Đồng thời,
nàng là người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy, chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ
sự thiếu vắng tình cha. Bằng chứng chính là chiếc bóng ở phần sau câu chuyện mà
nàng vẫn bảo đó là cha Đản. Cuối cùng, Vũ Nương còn bộc lộ đức tính hiếu thảo
của người con dâu, tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng lo chạy
chữa thuốc thang cho mẹ qua khỏi, thành tâm lễ bái thần phật, bởi yếu tố tâm
linh đối với người xưa là rất quan trọng. Nàng lúc nào cũng dịu dàng, “lấy lời
ngọt ngào khôn khéo, khuyên lơn”. Lời trăng trối cuối cùng của bà mẹ chồng đã
đánh giá cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “Xanh kia quyết chẳng phụ
con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Thông thường, nhất là trong xã hội cũ, mối
quan hệ mẹ chồng - con dâu là mối quan hệ căng thẳng, phức tạp. Nhưng trước
người con dâu hết mực hiền thảo như Vũ Nương thì bà mẹ Trương Sinh không thể
không yêu mến. Khi bà mất, Vũ Nương đã “hết lời thương xót, phàm việc ma chay
tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Có thể nói, cuộc đời Vũ Nương tuy
ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ: một người vợ thuỷ
chung, một người mẹ thương con, một người dâu hiếu thảo. ở bất kỳ một cương vị
nào, nàng cũng làm rất hoàn hảo.
Cảnh 4: Khi bị chồng nghi oan, nàng đã tìm mọi
cách để xoá bỏ ngờ vực trong lòng Trương Sinh.
+ ở lời nói đầu tiên, nàng nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng
định tấm lòng chung thuỷ trong trắng của mình. Cầu xin chồng đừng nghi oan,
nghĩa là nàng đã cố gắng hàn gắn, cứu vãn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ
tan vỡ.
+ ở lời nói thứ hai trong tâm trạng “bất đắc dĩ”, Vũ Nương bày tỏ nỗi thất vọng
khi không hiểu vì sao bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không có quyền tự bảo vệ
mình, thậm chí không có quyền được bảo vệ bởi những lời biện bạch, thanh minh
của hàng xóm láng giềng. Người phụ nữ của gia đình đã mất đi hạnh phúc gia
đình, “thú vui nghi gia nghi thất”. Tình cảm đơn chiếc thuỷ chung nàng dành cho
chồng đã bị phủ nhận không thương tiếc. Giờ đây “bình rơi trâm gãy, mây tạnh
mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống,
kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa”, cả nỗi nhớ chờ chồng mà hoá đá
trước đây cũng không còn. Vậy thì cuộc đời còn gì ý nghĩa nữa đối với người vợ
trẻ khao khát yêu thương ấy?
+ Chẳng còn gì cả, chỉ có nỗi thất vọng tột cùng, đau đớn ê chề bởi cuộc hôn
nhân đã không còn cách nào hàn gắn nổi, mà nàng thì phải chịu oan khuất tày
trời. Bị dồn đến bước đường cùng, sau mọi cố gắng không thành, Vũ Nương chỉ còn
biết mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã tắm gội chay sạch
mong dòng nước mát làm dịu đi tức giận trong lòng, khiến nàng suy nghĩ tỉnh táo
hơn để không hành động bồng bột. Nhưng nàng vẫn không thay đổi quyết định ban
đầu, bởi chẳng còn con đường nào khác cho người phụ nữ bất hạnh này. Lời than
của nàng trước trời cao sông thẳm là lời nguyện xin thần sông chứng giám cho
nỗi oan khuất cũng như đức hạnh của nàng. Hành động trẫm mình là hành động
quyết liệt cuối cùng, chất chứa nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng đi theo sự
chỉ đạo của lý trí.
+ Được các tiên nữ cứu, nàng sống dưới thuỷ cung và được đối xử tình nghĩa.
Nàng hết sức cảm kích ơn cứu mạng của Linh Phi và các tiên nữ cung nước. Nhưng
nàng vẫn không nguôi nỗi nhớ cuộc sống trần thế - cuộc sống nghiệt ngã đã đẩy
nàng đến cái chết. Vũ Nương vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn
nặng lòng nhung nhớ quê hương, mộ phần cha mẹ, đồng thời vẫn khao khát được trả
lại danh dự. Bởi vậy mà nàng đã hiện về khi Trương Sinh lập đàn giải oan. Thế
nhưng “cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, Vũ Nương không
quay trở về trần gian nữa.
Tóm lại: Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục lại đảm đang,
tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thuỷ chung với chồng, hết
lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Nàng là người phụ nữ hoàn hảo, lý tưởng
của mọi gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi người phụ nữ. Người như nàng
xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết oan uổng, đau
đớn.
b. Vì sao Vũ Nương phải chết oan khuất? Từ đó em cảm nhận
được điều gì về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
Những duyên cớ khiến cho một người phụ nữ đức hạnh như Vũ
Nương không thể sống mà phải chết một cách oan uổng:
- Nguyên nhân trực tiếp: do lời nói ngây thơ của
bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, Vũ Nương thường “trỏ bóng mình
mà bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật
chở về thì không chịu nhận và còn vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị
oan.
- Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do người chồng đa nghi, hay ghen. Ngay từ đầu, Trương
Sinh đã được giới thiệu là người “đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”, lại
thêm “không có học”. Đó chính là mầm mống của bi kịch sau này khi có biến cố
xảy ra. Biến cố đó là việc Trương Sinh phải đi lính xa nhà, khi về mẹ đã mất.
Mang tâm trạng buồn khổ, chàng bế đứa con lên ba đi thăm mộ mẹ, đứa trẻ lại
quấy khóc không chịu nhận cha. Lời nói ngây thơ của đứa trẻ làm đau lòng
chàng:“Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha
tôi trước kia, chỉ nín thin thít” Trương Sinh gạn hỏi đứa bé lại đưa thêm những
thông tin gay cấn, đáng nghi: “Có một người đàn ông đêm nào cũng đến” (hành
động lén lút che mắt thiên hạ), “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đảng ngồi cũng ngồi”
(hai người rất quấn quýt nhau), “chẳng bao giờ bế Đản cả” (người này không muốn
sự có mặt của đứa bé). Những lời nói thật thà của con đã làm thổi bùng lên ngọn
lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh.
+ Do cách cư xử hồ đồ, thái độ phũ phàng, thô bạo của Trương Sinh. Là kẻ không
có học, lại bị ghen tuông làm cho mờ mắt, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng
suốt để phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán
ấy đã vội vàng kết luận, “đinh ninh là vợ hư”. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những
lời biện bạch, thanh minh, thậm chí là van xin của vợ. Khi Vũ Nương hỏi ai nói
thì lại giấu không kể lời con. Ngay cả những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm
cũng không thể cời bỏ oan khuất cho Vũ Nương. Trương Sinh đã bỏ qua tất cả
những cơ hội để cứu vãn tấn thảm kịch, chỉ biết la lên cho hả giận. Trương Sinh
lúc ấy không còn nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, cũng chẳng quan tâm đến công lao
to lớn của Vũ Nương đối với gia đình, nhất là gia đình nhà chồng. Từ đây có thể
thấy Trương Sinh là con đẻ của chế độ nam quyền bất công, thiếu lòng tin và
thiếu tình thương, ngay cả với người thân yêu nhất.
+ Do cuộc hôn nhân không bình đẳng, Vũ Nương chỉ là “con nhà kẻ khó”, còn
Trương Sinh là “con nhà hào phú”. Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinh đối
với Vũ Nương đã phần nào thể hiện quyền thế của người giàu đối với người nghèo
trong một xã hội mà đồng tiền đã bắt đầu làm đen bạc thói đời.
+ Do lễ giáo hà khắc, phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được tự
bảo vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ trinh là chữ quan trọng hàng đầu; người phụ
nữ khi đã bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ
còn một con đường chết để tự giải thoát.
+ Do chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh
tử biệt. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương
đã không phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm như vậy.
Tóm lại: Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo
xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong
gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan
nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây không những không được
bênh vực, trở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói
thơ ngây của đứa trẻ và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng hay ghen tuông mà đến
nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.
IV. Giá trị nghệ thuật:
1. Một số nét nghệ thuật đặc sắc của Chuyện người con gái
Nam Xương
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng. Đây là
sự khái quát hoá tấm lòng, sự ngộ nhận và sự hiểu lầm của từng nhân vật. Hình
ảnh này hoàn thiện thêm vẻ đẹp nhân cách của Vũ Nương, đồng thời cũng thể hiện
rõ nét hơn số phận bi kịch của Vũ Nương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói
chung.
- Nghệ thuật dựng truyện. Dẫn dắt tình huống truyện hợp lý. Chi tiết chiếc bóng
là đầu mối câu chuyện lại chỉ xuất hiện một lần duy nhất ở cuối truyện, tạo sự
bất ngờ, bàng hoàng cho người đọc và tăng tính bi kịch cho câu chuyện.
- Có nhiều sự sáng tạo so với cốt truyện cổ tích "Vợ chàng Trương"
bằng cách sắp xếp thêm bớt chi tiết một cách độc đáo.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành
động. Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước
lệ nhưng vẫn khắc hoạ đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
- Sử dụng yếu tố truyền kỳ (kỳ ảo) làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Yếu tố kỳ ảo, hoang đường làm câu chuyện vừa thực vừa mơ, vừa có hậu vừa không
có hậu, làm hoàn chỉnh vẻ đẹp của Vũ Nương.
- Kết hợp các phương thức biểu đạt: Tự sự + biểu cảm (trữ tình) làm nên một áng
văn xuôi tự sự còn sống mãi với thời gian.
2. ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo
* Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ
Nương, được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
- Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền
ảo rồi lại biến đi mất.
* Cách đưa các chi tiết kỳ ảo:
- Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực
về địa danh, về thời điểm lịch sử, những chi tiết thực về trang phục của các mỹ
nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… Cách
thức này làm cho thế giới kỳ ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực,
làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.
* ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo:
- Cách kết thúc này làm nên đặc trưng của thể loại truyện
truyền kỳ.
- Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan
tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
- Thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.
- Chi tiết kỳ ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện.
Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương
chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa. Tác giả đưa người đọc vào giấc
chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ - giấc mơ về những người phụ nữ
đức hạnh vẹn toàn. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thực cay đắng:
nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng
của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được người phụ nữ.
Đây là giấc mơ mà cũng là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi
trong lòng người đọc và là bài học thấm thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Comments
Post a Comment