Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.
* Đề 1: Tình cảm chân thành và tha thiết của nhân
dân ta với Bác Hồ được thể hiện qua bài thơ "Viếng Lăng Bác" của Viễn
Phương.
“Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha
nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Cả cuộc đời Bác chăm lo cho
hạnh phúc nhân dân. Cả cuộc đời Bác hy sinh cho dân tộc Việt Nam...”, đó là
những lời ca trong bài hát Bác Hồ một tình yêu bao la của cố nhạc sĩ Thuận Yến.
Những lời ca ấy như thay lời muốn nói cho hàng triệu trái tim của bao thế hệ
người Việt Nam đối với Người cha già của dân tộc. Viết về Bác là nguồn cảm hứng bất tận
mà không lặp lại ở nhạc sĩ, hoạ sĩ hay nhà thơ nhà văn nào. Viễn Phương cũng đã
thể hiện tình cảm xúc động đó trong bài thơ Viếng lăng Bác. Dù Bác đã đi xa nhưng hình ảnh một con người vĩ đại suốt
đời tận tâm, tận tụy vì dân, vì nước sẽ luôn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người
con Việt Nam.
Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, quê ở tỉnh
An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong
những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời
chống Mỹ cứu nước.
Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống
nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, tác giả ra thăm miền Bắc,
vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ "Viếng lăng Bác" được sáng tác trong
dịp đó, và in trong tập "Như mây mùa xuân”(1978).
Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động
sâu sắc của nhà thơ và mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác. Giọng
điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ
bình dị mà cô đúc. Cảm hứng bao trùm là niềm xúc động thiêng liêng thành kính,
lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng
lăng Bác. Mạch cảm xúc ấy đi theo trình
tự của một cuộc vào lăng viếng Bác, từ khi đứng trước lăng đến khi bước vào
Lăng và trở ra về. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở ấn
tượng đậm nét về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh quê hương đất nước. Tiếp đó là
cảm xúc trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc
cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng:
mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp
phải trở về quê hương miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫn được mãi mãi ở lại bên
lăng Bác. Mạch cảm xúc như trên đã tạp nên một bố cục khá đơn giản, tự nhiên và
hợp lý của bài thơ.
Khổ 1: Cảm xúc của tác giả
trước cảnh vật ngoài lăng Bác:
Đầu tiên là tình cảm chân thành
và giản dị của đồng bào miền Nam muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác.
Câu thơ mở đầu “Con ở miền Nam ra
thăm lăng Bác” gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam
sau bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác. Cách dùng đại từ xưng
hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân thương, diễn tả tâm trạng của
người con ra thăm cha. Kết hợp cách nói giảm, nói tránh: từ “thăm” thay cho từ
“viếng”, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát - Bác Hồ còn sống mãi trong tâm tưởng
của mọi người.
Ba câu thơ sau: Hình ảnh hàng tre
vừa mang tính tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc: Hàng tre là hình
ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam, đã thành một biểu tượng
của dân tộc. Cây tre mang biểu tượng của tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ,
kiên cường của dân tộc “xanh xanh Việt Nam… Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. “Ôi!”
là từ cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre.
Khổ thơ thư hai: Cảm xúc của
tác giả trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác.
Câu thơ thứ nhất được sử dụng nghệ
thuật nhân hóa với hình ảnh mặt trời của thiên nhiên “đi qua trên lăng”, “thấy”
để dõi theo Bác. Như ta biết, mặt trời của thiên nhiên đem đến sự sống, ánh
sáng, hơi ấm cho muôn vật, muôn loài. Ở câu thơ thứ hai ẩn dụ mặt trời chính là
Bác. Bác đã đem ánh sáng của cách mạng đến cho dân tộc, đem lý tưởng, ấm no,
tương lai cho đất nước. Với tính từ “rất
đỏ” đó là nhiệt huyết cách mạng, là trái tim ấm áp ngập tràn yêu thương. Từ hai
hình ảnh mặt trời sóng đôi chúng ta có thể thấy được sự vĩ đại, trường tồn của Bác.
Đó cũng là tình yêu, niềm tự hào và biết ơn Bác vô bờ bến của nhân dân ta.
Hình
ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực: ngày ngày dòng người đi
trong nỗi xúc động, bồi hồi, trong lòng tiếc thương kính cẩn, trong lòng nặng
trĩu nỗi nhớ thương. Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào
lăng viếng Bác.
Dòng người vào lăng viếng Bác kết
thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người
xếp thành hàng dài vào lăng Bác trong như những tràng hoa vô tận, mà còn là một
ẩn dụ đẹp, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của
Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp, tinh
tuý nhất.
Dâng “bảy mươi chín mùa xuân”: hình
ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng: con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã
sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm nên những mùa xuân cho đất
nước, cho con người.
Khổ 3: Cảm xúc của tác
giả trước di hài Người
Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang
niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:
“Bác nằm trong
lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng
trăng sáng trong dịu hiền”
Nghệ thuật nói giảm nói tránh. Bác chỉ đang ngủ giấc ngủ bình yên thanh thản giữa
vầng trăng sáng dịu hiền thôi. Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi sự liên tưởng
thật là thú vị: “ánh trăng”. Những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng, trăng đã
từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây cũng đến để dỗ giấc
ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh vầng trăng, nhà thơ còn uốn tạo ra một hệ
thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Hình ảnh “vầng trăng” dịu hiền lại gợi cho
ta nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp,
có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Đó cũng là sự biểu hiện rực rỡ, vĩ đại, cao
siêu của con người và sự nghiệp của Bác.
Tâm trạng xúc động của nhà thơ
được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.
Bác đã hoá thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp
và tâm trí của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. (Tố Hữu đã từng
viết: “Bác sống như trời đất của ta”).
Dù vẫn tin như thế nhưng không thể
không đau xót vì sự ra đi của Người. Nỗi đau xót đã được nhà thơ biểu hiện rất
cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Động từ “nghe nhói” thể hiện
nỗi đau quặn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào
trái tim thổn thức khi đứng trước thi thể của Người. Đó là sự rung cảm chân
thành của nhà thơ.
Khổ 4: Cảm xúc của tác
giả khi rời lăng ra về:
Khổ thơ thứ tư diễn tả
tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác. Câu thơ “Mai về
miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả
tình cảm sâu lắng. Từ "trào" diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến
tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con
tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần bác dù chỉ trong
giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cùng là mong ước chung của những người đã
hoặc chưa một lần nào gặp Bác. Muốn làm con chim hót - > âm thanh của thiên
nhiên, đẹp đẽ, trong lành. Muốn là đoá hoa - > toả hương thơm thanh cao nơi
Bác yên nghỉ. Muốn làm cây trẻ trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Điệp
từ “Muốn làm” biểu cảm trực tiếp và gián tiếp - > tâm trạng lưu luyến, ước muốn,
sự tự nguyên chân thành của tác giả. Hình ảnh cây tre xuất hiện khép lại bài
thơ một cách khéo léo.
Về nghệ thuật của bài thơ
Giọng thơ phù hợp với
tình cảm, cảm xúc, giọng điệu vừa nghiêm trang, vừa sâu lắng, vừa đau xót thiết
tha, xen lẫn niềm tự hào thể hiện đúng tâm trạng xúc động khi vào lăng viếng
Bác. Giọng điệu ấy tạp nên bởi nhiều yếu tố: Thể thơ, nhịp thơ, từ ngữ, hình
ảnh. Thể thơ 8 chữ, gieo vần linh hoạt, nhịp chậm, thể hiện sự nghiêm trang,
thành kính. Khổ cuối nhịp nhanh hơn nhờ các điệp ngữ thể hiện mong muốn thiết
tha của nhà thơ. Hình ảnh sáng tạo, vừa thực, vừa ảo, mang ý nghĩa ẩn dụ biểu
tượng. Bài thơ giàu chất suy tưởng và chất trữ tình đằm thắm, diễn tả niềm xúc
động, thành kính. Cảm xúc của bài thơ được cộng hưởng với tình cảm thiêng liêng
Bác dành cho nhân dân miền Nam và tình cảm của dân tộc đối với Người.
Nhà thơ đã nói hộ những tình cảm của
chúng ta, của dân tộc gửi tới vị cha già kính yêu. Đó không phải là nỗi đau xót
mềm yếu, trái lại cho ta thêm nghị lực đi tiếp con đường của Bác.
“Xin
nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như
muôn ngọn dải Trường Sơn”
“Viếng lăng Bác” là một bài
thơ đẹp về hình ảnh thơ, hay về cảm xúc… gây xúc động sâu xa trong lòng người
đọc. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác
giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào, đằm thắm lại rất giản dị, chân thành đối
với Bác. Xin nguyện như Viễn Phương, sống một cuộc đời đẹp đẽ để trở thành
những bông hoa dâng lên Bác.
Comments
Post a Comment