Phân tích đoạn 3 bài Tây Tiến

 

Câu 2 (5, 0 điểm)

Đọc đoạn thơ sau:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

            (Trích:Tây Tiến- Quang Dũng, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam.)

Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tính chất bi tráng được thể hiện qua đoạn thơ.

Bài làm:

Mở bài:

 Quý Đôn từng nói: “Thơ khởi phát tự lòng ta”. Đúng vậy, thơ là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ chính là tiếng nhạc, tiếng lòng của người nghệ sĩ. “Thơ là một lạng cảm hứng cộng với một tạ mồ hôi”. Giống như “Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật” cho đời (P. Povienko). Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế, được chưng cất từ một tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Bài thơ vừa mang vẻ đẹp lãng mạn vừa mang vẻ đẹp hiện thực. Đoạn thơ từ câu: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là đoạn thơ đặc sắc, thể hiện vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến. Từ đó, chúng ta sẽ thấy được tính chất bi tráng qua đoạn thơ

Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây. Ông la một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Ở lĩnh vực nào ông cũng gặt hái được thành công. Nhưng chúng ta biết đến Quang Dũng trước hết là một nhà thơ với phong cách phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.

Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)

Cảm xúc chủ đạo của bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng. Đoạn thơ thứ ba là đoạn thơ hay viết về bức chân dung người lính Tây Tiến.

a. Vẻ đẹp của hình tượng người lính trước hết được thể hiện ở ngoại hình:

                       “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

                       Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Đâu là những nét vẽ về ngoại hình người lính Tây Tiến? Không mọc tóc, quân xanh màu lá, tái hiện một cách chân thực chân dung người lính Tây Tiến của thời gian khổ. Không mọc tóc, da xanh tái là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Nhà thơ Quang Dũng không nể tránh hiện thực. Cũng giống như những vần thơ của các nhà thơ khác từng nói về sự ám ảnh này.

Tố Hữu viết:

“Giọt giọt mồ hôi rơi

 Trên má anh vàng nghệ”

Màu vàng nghệ, da xanh tái đều vì thiếu máu, kiệt quệ sau những trận sốt rét rừng dài ngày mà không có thuốc men chăm sóc. Không mọc tóc còn là hậu quả sốt rét rừng tóc rụng hết, phải rất lâu tóc mới mọc lại được.

Thơ Chính Hữu cũng viết:

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Khủng khiếp vô cùng những người lính từng chiến đấu ở vùng rừng thiêng nước độc này, họ luôn nhớ về những ngày tháng kinh hoàng. Người chết vì sốt rét rừng còn nhiều hơn chết vì làn tên mũi đạn của kẻ thù. Bao nhiêu người nằm xuống, bao nấm mồ hoang lạnh mọc lên đó là những nét vẽ chân thật. Tuy nhiên Quang Dũng lại dùng cách nói rất khẩu khí nhờ bút pháp lãng mạn. Tóc không thể mọc nhưng lại chuyển sang cách nói chủ động không mọc tóc tạo chân dung dữ dằn để mà uy hiếp kẻ thù.

Cùng với chân dung dữ dội ấy là “quân xanh màu lá” vì hậu quả của sốt rét rừng thiếu máu kiệt sức. Thế Nhưng cách nói khiến màu da xanh tái như hàm chứa sức mạnh của chúa sơn lâm, làm cho kẻ thù khiếp sợ. Hiện thực đau thương nhưng khúc xạ qua cái nhìn của Quang Dũng qua bút pháp lãng mạn, hiện thực đau thương trở nên hào hùng, mang hào khí của những người lính Tây Tiến của một thời đại đáng nhớ.

b. Nét vẽ thứ hai về người lính là sức mạnh nội tâm. Đằng sau vẻ đẹp ngoại hình là sức mạnh nội tâm ẩn chứa. Hình ảnh đoàn binh gợi đông đúc, sức mạnh đoàn kết khí thế ra trận tiến quân, hành quân mạnh mẽ.

Tố Hữu viết: “Quân đi điệp điệp trùng trùng.

Phạm Ngũ Lão cũng từng viết:  “Tam quân tỷ hổ khí thôn ngưu”.

Đây là lý do lý giải vì sao chúng ta làm nên chiến thắng 9 năm kháng chiến.      

      Yếu tố ngôn từ thứ hai hình ảnh giữ oai hùng. Thực tế màu da xanh tái vì thiếu máu nhưng lại tạo nên nét dữ dằn cho chân dung người lính Tây Tiến. Dường như họ mang trong mình khí phách của chúa sơn lâm rừng thẳm. Làm cho kẻ thù đứng trước họ phải run sợ lùi bước, uy hiếp tinh thần kẻ thù.

      Yếu tố ngôn từ thứ ba ở câu thơ tiếp “Mắt trừng”: ánh mắt nhìn thẳng chứa đầy căm hờn, quyết tâm, sức mạnh nội lực đang nhìn về phía trước, phía quân thù. Quyết tâm, quyết chiến, quyết thắng. Bên ngoài ngoại hình tiều tụy lại ẩn chứa sức mạnh nội tâm kỳ diệu.

c. Không chỉ ở vẻ đẹp ngoại hình mà họ còn có tâm hồn mộng mơ. Đây là nét vẽ đẹp nhất về người lính Tây Tiến.

       “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

        Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

        Trong những đêm thao thức không ngủ những người lính Tây Tiến lại hướng ánh mắt của mình về phía bên kia biên giới, phía tổ quốc mình, phía Hà Thành, nơi cất giữ bao kỷ niệm một thời là sinh viên, học sinh của họ. Câu thơ này được xem là nét vẽ đẹp nhất về người lính Tây Tiến. Nhưng cũng chính câu thơ này mà cả bài thơ cũng như tác giả Quang Dũng cũng một thời gian dài chịu số phận long đong. Câu thơ này từng bị đánh giá là mộng rớt, lãng mạn tiểu tư sản làm tâm hồn con người ủy mị đi, hết khí thế chiến đấu chiến thắng. Với cách đánh giá có phần ấu trĩ và lạc hậu của một thời làm cho câu thơ này, bài thơ này không được lưu hành trong một thời gian dài. Năm 1986 với những trải nghiệm lịch sử, xu thế nhìn nhận và đánh giá văn học với những tiêu chí khoa học hơn, đúng đắn hơn người ta lại thấy những câu thơ này rất hay nên bài thơ được trả lại nguyên giá trị của nó. Những vần thơ mang nỗi nhớ về người đẹp chốn Hà Thành lại được những thế hệ học sinh yêu thích.

Trong nỗi nhớ hàng đêm của người lính đó là hình ảnh dáng kiểu thơm những cô gái Hà Thành.

Trong ca dao: “Không thơm cũng thể hoa nhài

                   Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

Từ nguồn gốc xuất thân là sinh viên Hà Thành. Mỗi người lính khi ra đi mang theo hành trang không chỉ là sách bút mà có lẽ họ mang theo cả mối tình mới chớm nở, thậm chí chưa kịp gọi thành tên, chưa kịp ngỏ thành lời. Hàng đêm họ vẫn nhớ về những cô gái chốn phồn hoa. Đó là động lực để họ vượt lên khó khăn gian khổ hiện tại để hướng tới ngày mai với niềm tin bất diệt. Bằng những câu thơ này chúng ta hiểu được vì sao mà “Đợi anh về” của Xi- mo- nop trong chiến tranh thế giới thứ hai lại lay động lòng người đến thế.

Em ơi đợi anh về

dù mưa rơi dầm dề

dù ngày dài lê thê

thì em ơi cứ đợi

dù gió đông tuyết rơi

dù nắng hạ em ơi

dù nắng hạ mưa rơi

dù ai đó quên rồi

thì em ơi cứ đợi.

Người lính ở tiền tuyến cần lắm một tình cảm ấm áp ở hậu phương. Chính vì thế họ luôn dõi về người đẹp phương xa ấy để họ có đủ động lực tiến bước trên chặng đường hành quân phía trước. Cũng vì thế ta hiểu được vì sao khi khắc họa hình ảnh tráng sĩ thời xưa bao giờ cũng thấy hình bóng người đẹp. Đây là động lực để họ lập nên chiến công phi thường. cũng từ câu thơ này chúng ta hiểu vì sao trong mỗi vần thơ của lính thường hay có một chút nói về tình yêu.

Nguyễn đình Thi viết: “Những đêm dài hành quân nung nấu

                                    Bỗng bồn chồn nhớ mặt người yêu.

Ta hiểu được vì sao trải dài suốt bài thơ này đều thấp thoáng bóng hình người đẹp.

Nhà ai pha luông mưa xa khơi

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Đêm mưa Hà Nội dáng tiểu thơm.

d. Nhưng trên hết là nét đẹp của lý tưởng và khát vọng.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Câu thứ nhất, nếu tách riêng ra sẽ tạo nên bức tranh ảm đạm. Đó là những nấm mồ vô danh nằm rải rác trên dọc đường hành quân của những người lính Tây Tiến. Những nấm mồ vô danh ấy không có người hương khói, không ai chăm nom rất tội nghiệp. Đặc biệt tác giả dùng từ “rải rác” nghĩa là thưa thớt, vắng vẻ tiêu điều, phần nào gợi ra không khí thê lương.

Trong “Chinh phụ ngâm” cũng từng viết:

 Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mặc mặt nào ai gọi hồn.

Như vậy những người nằm xuống trong một nghi thức hết sức sơ sài. Khi nằm trong lòng đất mẹ cũng không có ai đến đây chăm sóc hương khói cho phần mộ của họ. Tuy nhiên ở câu thơ này chỉ có 7 chữ thôi nhưng tác giả đã dùng tới hai từ Hán Việt. Đó là “biên cương” “viễn xứ” mang màu sắc cổ kính trang nghiêm. Nhờ những từ Hán Việt bao bọc cho những nấm mồ ấy có không khí thành kính nghiêm trang, phần nào an ủi, xoa dịu cho sự cô đơn của những người lính. Xong câu thơ này giống như bước khởi đầu để từ đó tôn vinh ý thơ trong câu thơ thứ hai. Câu thơ này vang lên giống như một lời thề quyết tâm rất mạnh mẽ, mặc dù những người lính Tây Tiến hàng ngày trên cung đường hành quân của mình vẫn nhìn thấy những nấm mồ rải rác ở dọc đường. Mặc dù họ chứng kiến những người bạn của mình đã phải nằm xuống “gục bên súng mũ bỏ quên đời”. Nhưng không vì thế mà họ nhụt chí sờn lòng. Thậm chí khung cảnh này lại làm tăng thêm quyết tâm chiến đấu chiến thắng ở họ. Cách nói chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Đời xanh là tuổi trẻ bao nhiêu ước mơ khát vọng đang mở ra phía trước đang chờ đợi họ. Thế nhưng có một thứ còn quý hơn đời xanh, quý hơn sinh mạng của bản thân đó là sinh mạng của Tổ quốc. Nên họ đã cùng nhau hô lên một lời thề quyết tâm “Chiến trường đi không tiếc đời xanh”. Câu thơ gợi khẩu khí của những tráng sĩ thời xưa, “nhất khứ bất phục phản”, đi không trở lại. Đồng thời chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh khiến ta nhớ đến câu thơ của nhà thơ Thanh Thảo. Có lẽ những vần thơ kháng chiến chống Mỹ ấy là sự tiếp nối những vần thơ kháng chiến chống pháp, tư tưởng quyết tâm ấy vẫn là một.

“Chúng ta đã đi như không tiếc đời mình

Nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ quốc”.

Vì họ nhận thức như vậy nên đã quyết tâm ra đi không hẹn ngày về. Cảm hứng bi tráng một thời quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.

Chế Lan Viên cũng từng viết

“Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Ôi tổ quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”.

Tình yêu tổ quốc lớn lao quá, sinh mạng Tổ quốc thiêng liêng quá. Nên những người lính Tây Tiến không tiếc sinh mạng mình tiếp tục hành quân. Những chặng đường họ vẫn tiến về phía trước họ không nhụt chí, không sợ hãi, họ hướng tới ngày mai tất thắng.

e. Sự hi sinh cao đẹp

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nhà thơ Quang Dũng không né tránh hiện thực khi miêu tả những cung đường hành quân của họ. Đó là những hơi thở nặng nhọc, những bước chân mệt mỏi, đó là sự gục ngã “anh bạn dãi dầu không bước nữa gục lên xuống mũ bỏ quên đời”. Đó là hình ảnh những nấm mồ hoang lạnh hai bên đường. Sự mất mát hy sinh của họ được tập trung thể hiện trong hình ảnh “áo bào thay chiếu anh về đất”. Hình ảnh thơ này xuất phát từ thực tế. Những người lính Tây Tiến trong đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp hết sức thiếu thốn về quân trang, quân dụng, lương thực thực phẩm, khi nằm trong lòng đất mẹ, khi về với đất mẹ, họ thậm chí không có cả tấm chiếu bó thây. Họ về với đất mẹ bằng chính tấm áo mà họ mặc hàng ngày, tấm áo mỏng rách vá như từng xuất hiện trong thơ của Chính Hữu

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá.

Ngày hôm nay khi vào lòng đất mẹ lại cũng là manh áo ấy đáng thương vô cùng, tội nghiệp vô cùng. Nhưng nhà thơ Quang Dũng không né tránh hiện thực, nhà thơ lại dùng cách nói để xóa đi cảm giác bi thương là áo bào. Tấm áo mỏng rách không thể chống chọi với thời tiết khắc nghiệt của thiên nhiên. Thế mà đi vào thơ Quang Dũng trong giây phút thiêng liêng này trở thành áo bào. Áo bào là áo của chiến tướng. Như vậy, người lính Tây Tiến khi nằm vào lòng đất Mẹ có được khí thế lẫm liệt của những chiến tướng sang trọng thời xưa.

“Áo choàng đỏ tựa dáng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”.

Quang Dũng ở đây dùng cách nói về đất, nói giảm nói tránh. Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến giống như là sự tựu nghĩa của những người anh hùng. Họ thanh thản nằm trong lòng đất mẹ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc, như nhà nông vừa cài xong thửa ruộng.

“Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng

Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành.

Trong mơ anh thấy lúa đồng xanh”.

Họ đang nằm trong lòng đất mẹ rất thanh thản sau khi đã cống hiến máu xương của mình cho đất nước, cho tự do của dân tộc. Nếu câu thơ thứ nhất là con người kìm nén bao nhiêu trước cái chết của người lính Tây Tiến thì những câu thơ sau lại là thiên nhiên dữ dội gầm thét bấy nhiêu trong khúc độc hành. Ở đây là con sông Mã, con sông mở ra đầu bài thơ, đến bây giờ gần cuối bài thơ lại một lần nữa xuất hiện. Con sông Mã là những chứng nhân lịch sử, người bạn trải dài theo chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến. Người bạn rất thân thiết nên khi phải chứng kiến cái chết của người lính Tây Tiến nó không chịu đựng nổi, không kìm nén nổi, nó phải gầm lên tiếng kèn của thiên nhiên tiễn người lính Tây Tiến về nơi an nghỉ cuối cùng. Nỗi đau của con người cố gắng kìm nén nhưng nỗi đau của thiên nhiên thì lại được bộc lộ một cách bộc trực. Cái chết của người lính Tây Tiến để lại những đau đớn với những người còn lại. Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu những nét vẽ về người lính Tây Tiến tạo nên bức tượng đài bi tráng bất tử.

Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn, bi tráng. Lãng mạn là thủ pháp đối lập mạnh mẽ ở bốn câu đầu, ngoài ngoại hình tiều tụy không mọc tóc, xanh màu lá mâu thuẫn với sức mạnh nội tâm. Sau sức mạnh hào hùng đó là chàng trai hào hoa.

Màu sắc bi tráng ở bốn câu cuối. Bi làm nền cho cái tráng, tạo nên vẻ đẹp riêng của người lính Tây Tiến. ta nhớ bài “Ngày về” của chính Hữu.

Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa

Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm

Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”.

Đặc sắc nghệ thuật kết hợp với bút pháp hiện thực lãng mạn làm nên vẻ đẹp bi tráng. Đoạn thơ khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến đã thể hiện được lý tưởng sống của thế hệ thanh niên thời kháng chiến chống pháp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ sẵn sàng chấp nhận cái chết. Hai từ “chẳng tiếc” vang lên quyết liệt dứt khoát lý tưởng sống của thanh niên thời chiến và thời bình. Ngày hôm qua thanh niên “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” ngày hôm nay người ta không nêu cao tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” nữa mà nêu cao tinh thần cống hiến để xây dựng đất nước, để đất nước chúng ta ngày càng giàu đẹp, sánh vai với các cường quốc năm châu. Tuy nhiên, vẫn có một số biểu hiện lệch lạc, sống thờ ơ, vô trách nhiệm, hời hợt không lý tưởng. Ngày hôm nay khi đọc học bài Tây Tiến thế hệ thanh niên càng nhận thức rõ hơn vai trò sứ mệnh thế hệ mình.

Hoài Thanh từng nói: “Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mĩ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống.” Trong đoạn thơ này, Quang Dũng xứng đáng được tôn vinh là nhà thơ chiến sĩ, nhà thơ của những người lính. Đọc đoạn thơ, người đọc thấy được cả một thời gian khổ và chân dung sống động của người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã góp công để binh đoàn Tây Tiến sống mãi trong lòng thế hệ trẻ chúng ta.

Nhận xét tính chất bi tráng được thể hiện qua đoạn thơ:

Tính chất bi tráng hội tụ trong mình nó yếu tố bi và yếu tố tráng; có mất mát, đau thương song không bi lụy; gian khổ, hi sinh song vẫn rất hào hùng, tráng lệ. Chính tính chất bi tráng mang đến cho chúng ta những cảm nhận chân thực và xúc động về những năm tháng chiến tranh khốc liệt và thấy được vẻ đẹp tâm hồn, khí phách cao cả của thế hệ anh bộ đội cụ Hồ. Tính chất bi tráng có cội nguồn từ chiến trường Tây Tiến ác liệt, từ  tinh thần quả cảm và tâm hồn lạc quan của những chàng trai Hà thành, từ tấm lòng đồng cảm và trân trọng đồng chí đồng đội của nhà thơ. Tính chất bi tráng cùng với cảm hứng lãng mạn làm nên vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính Tây Tiến. Tính chất bi tráng có ý nghĩa giáo dục nhận thức và bồi đắp tình cảm, trách nhiệm cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Đoạn thơ nói riêng và bài thơ Tây Tiến nói chung khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến,  tiêu biểu cho một thế hệ ra đi không hẹn ngày về, kết tinh vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp. Qua đó, ta thấy được tình cảm sâu sắc của tác giả giành cho đồng đội, hồn thơ phóng khoáng lãng mạn của Quang Dũng. Chính vì thế bài thơ Tây Tiến đã sống mãi trong lòng bạn đọc.

Comments

Popular posts from this blog

50 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘI HAY ĐỂ VIẾT ĐOẠN VĂN, BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI THUYẾT PHỤC

Phong cách sáng tác của nhà văn là gì?

Phân tích bài thơ “Chiều tối” (Mộ) trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh