Phân tích đoạn 3 bài Tây Tiến
Câu 2 (5, 0 điểm)
Đọc đoạn thơ sau:
“Tây Tiến
đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng
kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Trích:Tây Tiến- Quang Dũng, Ngữ văn 12, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam.)
Phân tích hình tượng người
lính Tây Tiến trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tính chất bi tráng được
thể hiện qua đoạn thơ.
Bài
làm:
Mở bài:
Lê Quý Đôn từng nói: “Thơ khởi phát
tự lòng ta”. Đúng vậy, thơ là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó
không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ chính là tiếng nhạc, tiếng lòng của người nghệ sĩ. “Thơ là một lạng cảm hứng cộng với
một tạ mồ hôi”. Giống như “Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần
xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một
gam mật” cho đời (P. Povienko). Bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng là một trong những bài thơ như thế, được chưng cất từ một tâm hồn hào hoa,
lãng mạn. Bài thơ vừa mang vẻ đẹp lãng mạn vừa mang vẻ đẹp hiện thực. Đoạn thơ
từ câu: “Tây Tiến
đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc
độc hành” là đoạn thơ đặc sắc, thể hiện vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến. Từ đó, chúng ta sẽ
thấy được tính chất bi tráng qua đoạn thơ
Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây. Ông
la một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Ở lĩnh vực nào
ông cũng gặt hái được thành công. Nhưng chúng ta biết đến Quang Dũng trước hết
là một nhà thơ với phong cách phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa.
Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tây Tiến là
một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo
vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào
và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là
vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường,
Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội,
trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện
thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
Quang Dũng là một người lính trong đoàn
quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày
chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại
làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được
in trong tập “Mây đầu ô”(1986)
Cảm xúc chủ đạo của bài thơ được viết
trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn
quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang
sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng. Đoạn thơ thứ ba là đoạn thơ hay viết về bức
chân dung người lính Tây Tiến.
a. Vẻ đẹp
của hình tượng người lính trước hết được thể hiện ở ngoại hình:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Đâu là những nét vẽ về ngoại hình người
lính Tây Tiến? Không mọc tóc, quân xanh màu lá, tái hiện một cách chân thực
chân dung người lính Tây Tiến của thời gian khổ. Không mọc tóc, da xanh tái là
hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Nhà thơ Quang Dũng không nể
tránh hiện thực. Cũng giống như những vần thơ của các nhà thơ khác từng nói về
sự ám ảnh này.
Tố Hữu viết:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh
vàng nghệ”
Màu vàng nghệ, da xanh tái đều vì thiếu
máu, kiệt quệ sau những trận sốt rét rừng dài ngày mà không có thuốc men chăm
sóc. Không mọc tóc còn là hậu quả sốt rét rừng tóc rụng hết, phải rất lâu tóc mới
mọc lại được.
Thơ Chính Hữu cũng viết:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Khủng khiếp vô cùng những người lính từng
chiến đấu ở vùng rừng thiêng nước độc này, họ luôn nhớ về những ngày tháng kinh
hoàng. Người chết vì sốt rét rừng còn nhiều hơn chết vì làn tên mũi đạn của kẻ
thù. Bao nhiêu người nằm xuống, bao nấm mồ hoang lạnh mọc lên đó là những nét vẽ
chân thật. Tuy nhiên Quang Dũng lại dùng cách nói rất khẩu khí nhờ bút pháp
lãng mạn. Tóc không thể mọc nhưng lại chuyển sang cách nói chủ động không mọc
tóc tạo chân dung dữ dằn để mà uy hiếp kẻ thù.
Cùng với chân dung dữ dội ấy là “quân
xanh màu lá” vì hậu quả của sốt rét rừng thiếu máu kiệt sức. Thế Nhưng cách nói
khiến màu da xanh tái như hàm chứa sức mạnh của chúa sơn lâm, làm cho kẻ thù
khiếp sợ. Hiện thực đau thương nhưng khúc xạ qua cái nhìn của Quang Dũng qua
bút pháp lãng mạn, hiện thực đau thương trở nên hào hùng, mang hào khí của những
người lính Tây Tiến của một thời đại đáng nhớ.
b. Nét vẽ thứ hai về người
lính là sức mạnh nội tâm. Đằng sau vẻ đẹp
ngoại hình là sức mạnh nội tâm ẩn chứa. Hình ảnh đoàn binh gợi đông đúc, sức mạnh
đoàn kết khí thế ra trận tiến quân, hành quân mạnh mẽ.
Tố Hữu viết: “Quân đi điệp điệp trùng
trùng.
Phạm Ngũ Lão cũng từng viết: “Tam quân tỷ hổ khí thôn ngưu”.
Đây là lý do lý giải vì sao chúng ta làm nên chiến thắng
9 năm kháng chiến.
Yếu tố
ngôn từ thứ hai hình ảnh giữ oai hùng. Thực tế
màu da xanh tái vì thiếu máu nhưng lại tạo nên nét dữ dằn cho chân dung người
lính Tây Tiến. Dường như họ mang trong mình khí phách của chúa sơn lâm rừng thẳm.
Làm cho kẻ thù đứng trước họ phải run sợ lùi bước, uy hiếp tinh thần kẻ thù.
Yếu tố
ngôn từ thứ ba ở câu thơ tiếp “Mắt trừng”: ánh mắt nhìn thẳng chứa đầy căm hờn,
quyết tâm, sức mạnh nội lực đang nhìn về phía trước, phía quân thù. Quyết tâm,
quyết chiến, quyết thắng. Bên ngoài ngoại hình tiều tụy lại ẩn chứa sức mạnh nội
tâm kỳ diệu.
c. Không chỉ ở vẻ đẹp ngoại hình mà họ còn
có tâm hồn mộng mơ. Đây là nét vẽ đẹp nhất
về người lính Tây Tiến.
“Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm”.
Trong những
đêm thao thức không ngủ những người lính Tây Tiến lại hướng ánh mắt của mình về
phía bên kia biên giới, phía tổ quốc mình, phía Hà Thành, nơi cất giữ bao kỷ niệm
một thời là sinh viên, học sinh của họ. Câu thơ này được xem là nét vẽ đẹp nhất
về người lính Tây Tiến. Nhưng cũng chính câu thơ này mà cả bài thơ cũng như tác
giả Quang Dũng cũng một thời gian dài chịu số phận long đong. Câu thơ này từng
bị đánh giá là mộng rớt, lãng mạn tiểu tư sản làm tâm hồn con người ủy mị đi, hết
khí thế chiến đấu chiến thắng. Với cách đánh giá có phần ấu trĩ và lạc hậu của
một thời làm cho câu thơ này, bài thơ này không được lưu hành trong một thời
gian dài. Năm 1986 với những trải nghiệm lịch sử, xu thế nhìn nhận và đánh giá
văn học với những tiêu chí khoa học hơn, đúng đắn hơn người ta lại thấy những
câu thơ này rất hay nên bài thơ được trả lại nguyên giá trị của nó. Những vần
thơ mang nỗi nhớ về người đẹp chốn Hà Thành lại được những thế hệ học sinh yêu
thích.
Trong nỗi nhớ hàng đêm của người lính đó
là hình ảnh dáng kiểu thơm những cô gái Hà Thành.
Trong ca dao: “Không thơm cũng thể hoa
nhài
Dẫu không thanh lịch cũng
người Tràng An.
Từ nguồn gốc xuất thân là sinh viên Hà
Thành. Mỗi người lính khi ra đi mang theo hành trang không chỉ là sách bút mà
có lẽ họ mang theo cả mối tình mới chớm nở, thậm chí chưa kịp gọi thành tên,
chưa kịp ngỏ thành lời. Hàng đêm họ vẫn nhớ về những cô gái chốn phồn hoa. Đó
là động lực để họ vượt lên khó khăn gian khổ hiện tại để hướng tới ngày mai với
niềm tin bất diệt. Bằng những câu thơ này chúng ta hiểu được vì sao mà “Đợi anh
về” của Xi- mo- nop trong chiến tranh thế giới thứ hai lại lay động lòng người
đến thế.
Em ơi đợi anh về
dù mưa rơi dầm dề
dù ngày dài lê thê
thì em ơi cứ đợi
dù gió đông tuyết rơi
dù nắng hạ em ơi
dù nắng hạ mưa rơi
dù ai đó quên rồi
thì em ơi cứ đợi.
Người lính ở tiền tuyến cần lắm một tình
cảm ấm áp ở hậu phương. Chính vì thế họ luôn dõi về người đẹp phương xa ấy để họ
có đủ động lực tiến bước trên chặng đường hành quân phía trước. Cũng vì thế ta
hiểu được vì sao khi khắc họa hình ảnh tráng sĩ thời xưa bao giờ cũng thấy hình
bóng người đẹp. Đây là động lực để họ lập nên chiến công phi thường. cũng từ
câu thơ này chúng ta hiểu vì sao trong mỗi vần thơ của lính thường hay có một
chút nói về tình yêu.
Nguyễn đình Thi viết: “Những đêm dài
hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn
nhớ mặt người yêu.
Ta hiểu được vì sao trải dài suốt bài
thơ này đều thấp thoáng bóng hình người đẹp.
Nhà ai pha luông mưa xa khơi
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đêm mưa Hà Nội dáng tiểu thơm.
d. Nhưng trên hết là nét đẹp của
lý tưởng và khát vọng.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Câu thứ nhất, nếu tách riêng ra sẽ tạo
nên bức tranh ảm đạm. Đó là những nấm mồ vô danh nằm rải rác trên dọc đường
hành quân của những người lính Tây Tiến. Những nấm mồ vô danh ấy không có người
hương khói, không ai chăm nom rất tội nghiệp. Đặc biệt tác giả dùng từ “rải rác”
nghĩa là thưa thớt, vắng vẻ tiêu điều, phần nào gợi ra không khí thê lương.
Trong “Chinh phụ ngâm” cũng từng viết:
Hồn
tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mặc mặt nào ai gọi hồn.
Như vậy những người nằm xuống trong một
nghi thức hết sức sơ sài. Khi nằm trong lòng đất mẹ cũng không có ai đến đây
chăm sóc hương khói cho phần mộ của họ. Tuy nhiên ở câu thơ này chỉ có 7 chữ
thôi nhưng tác giả đã dùng tới hai từ Hán Việt. Đó là “biên cương” “viễn xứ”
mang màu sắc cổ kính trang nghiêm. Nhờ những từ Hán Việt bao bọc cho những nấm
mồ ấy có không khí thành kính nghiêm trang, phần nào an ủi, xoa dịu cho sự cô
đơn của những người lính. Xong câu thơ này giống như bước khởi đầu để từ đó tôn
vinh ý thơ trong câu thơ thứ hai. Câu thơ này vang lên giống như một lời thề
quyết tâm rất mạnh mẽ, mặc dù những người lính Tây Tiến hàng ngày trên cung đường
hành quân của mình vẫn nhìn thấy những nấm mồ rải rác ở dọc đường. Mặc dù họ chứng
kiến những người bạn của mình đã phải nằm xuống “gục bên súng mũ bỏ quên đời”.
Nhưng không vì thế mà họ nhụt chí sờn lòng. Thậm chí khung cảnh này lại làm
tăng thêm quyết tâm chiến đấu chiến thắng ở họ. Cách nói chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh. Đời xanh là tuổi trẻ bao nhiêu ước mơ khát vọng đang mở ra phía
trước đang chờ đợi họ. Thế nhưng có một thứ còn quý hơn đời xanh, quý hơn sinh
mạng của bản thân đó là sinh mạng của Tổ quốc. Nên họ đã cùng nhau hô lên một lời
thề quyết tâm “Chiến trường đi không tiếc đời xanh”. Câu thơ gợi khẩu khí của
những tráng sĩ thời xưa, “nhất khứ bất phục phản”, đi không trở lại. Đồng thời
chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh khiến ta nhớ đến câu thơ của nhà thơ Thanh
Thảo. Có lẽ những vần thơ kháng chiến chống Mỹ ấy là sự tiếp nối những vần thơ
kháng chiến chống pháp, tư tưởng quyết tâm ấy vẫn là một.
“Chúng ta đã đi như không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ
quốc”.
Vì họ nhận thức như vậy nên đã quyết tâm
ra đi không hẹn ngày về. Cảm hứng bi tráng một thời quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh.
Chế Lan Viên cũng từng viết
“Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”.
Tình yêu tổ quốc lớn lao quá, sinh mạng
Tổ quốc thiêng liêng quá. Nên những người lính Tây Tiến không tiếc sinh mạng
mình tiếp tục hành quân. Những chặng đường họ vẫn tiến về phía trước họ không
nhụt chí, không sợ hãi, họ hướng tới ngày mai tất thắng.
e. Sự hi sinh cao đẹp
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nhà thơ Quang Dũng không né tránh hiện
thực khi miêu tả những cung đường hành quân của họ. Đó là những hơi thở nặng nhọc,
những bước chân mệt mỏi, đó là sự gục ngã “anh bạn dãi dầu không bước nữa gục
lên xuống mũ bỏ quên đời”. Đó là hình ảnh những nấm mồ hoang lạnh hai bên đường.
Sự mất mát hy sinh của họ được tập trung thể hiện trong hình ảnh “áo bào thay
chiếu anh về đất”. Hình ảnh thơ này xuất phát từ thực tế. Những người lính Tây
Tiến trong đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp hết sức thiếu thốn về quân
trang, quân dụng, lương thực thực phẩm, khi nằm trong lòng đất mẹ, khi về với đất
mẹ, họ thậm chí không có cả tấm chiếu bó thây. Họ về với đất mẹ bằng chính tấm
áo mà họ mặc hàng ngày, tấm áo mỏng rách vá như từng xuất hiện trong thơ của Chính
Hữu
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá.
Ngày hôm nay khi vào lòng đất mẹ lại
cũng là manh áo ấy đáng thương vô cùng, tội nghiệp vô cùng. Nhưng nhà thơ Quang
Dũng không né tránh hiện thực, nhà thơ lại dùng cách nói để xóa đi cảm giác bi
thương là áo bào. Tấm áo mỏng rách không thể chống chọi với thời tiết khắc nghiệt
của thiên nhiên. Thế mà đi vào thơ Quang Dũng trong giây phút thiêng liêng này
trở thành áo bào. Áo bào là áo của chiến tướng. Như vậy, người lính Tây Tiến
khi nằm vào lòng đất Mẹ có được khí thế lẫm liệt của những chiến tướng sang trọng
thời xưa.
“Áo choàng đỏ tựa dáng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”.
Quang Dũng ở đây dùng cách nói về đất,
nói giảm nói tránh. Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến giống như là sự tựu
nghĩa của những người anh hùng. Họ thanh thản nằm trong lòng đất mẹ sau khi đã
hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc, như nhà nông vừa cài xong thửa ruộng.
“Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành.
Trong mơ anh thấy lúa đồng xanh”.
Họ đang nằm trong lòng đất mẹ rất thanh
thản sau khi đã cống hiến máu xương của mình cho đất nước, cho tự do của dân tộc.
Nếu câu thơ thứ nhất là con người kìm nén bao nhiêu trước cái chết của người
lính Tây Tiến thì những câu thơ sau lại là thiên nhiên dữ dội gầm thét bấy
nhiêu trong khúc độc hành. Ở đây là con sông Mã, con sông mở ra đầu bài thơ, đến
bây giờ gần cuối bài thơ lại một lần nữa xuất hiện. Con sông Mã là những chứng
nhân lịch sử, người bạn trải dài theo chặng đường hành quân của người lính Tây
Tiến. Người bạn rất thân thiết nên khi phải chứng kiến cái chết của người lính
Tây Tiến nó không chịu đựng nổi, không kìm nén nổi, nó phải gầm lên tiếng kèn của
thiên nhiên tiễn người lính Tây Tiến về nơi an nghỉ cuối cùng. Nỗi đau của con
người cố gắng kìm nén nhưng nỗi đau của thiên nhiên thì lại được bộc lộ một
cách bộc trực. Cái chết của người lính Tây Tiến để lại những đau đớn với những
người còn lại. Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu những nét vẽ về người lính Tây Tiến
tạo nên bức tượng đài bi tráng bất tử.
Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn, bi
tráng. Lãng mạn là thủ pháp đối lập mạnh mẽ ở bốn câu đầu, ngoài ngoại hình tiều
tụy không mọc tóc, xanh màu lá mâu thuẫn với sức mạnh nội tâm. Sau sức mạnh hào
hùng đó là chàng trai hào hoa.
Màu sắc bi tráng ở bốn câu cuối. Bi làm
nền cho cái tráng, tạo nên vẻ đẹp riêng của người lính Tây Tiến. ta nhớ bài “Ngày
về” của chính Hữu.
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”.
Đặc sắc nghệ thuật kết hợp với bút pháp
hiện thực lãng mạn làm nên vẻ đẹp bi tráng. Đoạn thơ khắc họa hình tượng người
lính Tây Tiến đã thể hiện được lý tưởng sống của thế hệ thanh niên thời kháng
chiến chống pháp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh”. Họ sẵn sàng chấp nhận cái chết. Hai từ “chẳng tiếc” vang lên quyết
liệt dứt khoát lý tưởng sống của thanh niên thời chiến và thời bình. Ngày hôm
qua thanh niên “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” ngày hôm nay người ta không
nêu cao tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” nữa mà nêu cao tinh thần cống
hiến để xây dựng đất nước, để đất nước chúng ta ngày càng giàu đẹp, sánh vai với
các cường quốc năm châu. Tuy nhiên, vẫn có một số biểu hiện lệch lạc, sống thờ
ơ, vô trách nhiệm, hời hợt không lý tưởng. Ngày hôm nay khi đọc học bài Tây Tiến
thế hệ thanh niên càng nhận thức rõ hơn vai trò sứ mệnh thế hệ mình.
Hoài Thanh từng nói: “Thơ
là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc
đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất thực của mình để
vươn lên cái chân, thiện, mĩ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của
giá trị sống.” Trong đoạn thơ này, Quang Dũng xứng đáng được tôn
vinh là nhà thơ chiến sĩ, nhà thơ của những người lính. Đọc đoạn thơ, người đọc
thấy được cả một thời gian khổ và chân dung sống động của người lính Tây Tiến. Quang
Dũng đã góp công để binh đoàn Tây Tiến sống mãi trong lòng thế hệ trẻ chúng ta.
Nhận xét tính chất bi tráng được thể hiện qua đoạn thơ:
Tính
chất bi tráng hội tụ trong mình nó yếu tố bi
và yếu tố tráng; có mất mát, đau
thương song không bi lụy; gian khổ, hi sinh song vẫn rất hào hùng, tráng lệ.
Chính tính chất bi tráng mang đến cho chúng ta những cảm nhận chân thực và xúc
động về những năm tháng chiến tranh khốc liệt và thấy được vẻ đẹp tâm hồn, khí
phách cao cả của thế hệ anh bộ đội cụ Hồ. Tính chất bi tráng có cội nguồn từ
chiến trường Tây Tiến ác liệt, từ tinh
thần quả cảm và tâm hồn lạc quan của những chàng trai Hà thành, từ tấm lòng đồng
cảm và trân trọng đồng chí đồng đội của nhà thơ. Tính chất bi tráng cùng với cảm
hứng lãng mạn làm nên vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính Tây Tiến. Tính
chất bi tráng có ý nghĩa giáo dục nhận thức và bồi đắp tình cảm, trách nhiệm
cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Đoạn
thơ nói riêng và bài thơ Tây Tiến nói chung khắc họa thành công hình tượng người
lính Tây Tiến, tiêu biểu cho một thế hệ
ra đi không hẹn ngày về, kết tinh vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp. Qua đó, ta thấy được tình cảm sâu sắc
của tác giả giành cho đồng đội, hồn thơ phóng khoáng lãng mạn của Quang Dũng.
Chính vì thế bài thơ Tây Tiến đã sống mãi trong lòng bạn
đọc.
Comments
Post a Comment