Phân tích bài thơ “Chiều tối” trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
Chiều tối (Mộ) - Hồ
Chí Minh -
Đề bài: Phân tích bài thơ “Chiều tối”
trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
Mở bài 1:
Hồ
Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là danh nhân
văn hóa thế giới. Ngoài sự nghiệp chính trị, Người còn để lại một sự nghiệp thơ
văn phong phú với những tác phẩm đặc sắc. Trong đó không thể không nhắc tới tập
“Nhật ký trong tù” gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán, được Bác sáng tác trong thời
gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ từ mùa thu năm 1942 đến mùa
thu 1943. Chiều tối là bài thơ thứ 31 của tập thơ, viết trong cuộc chuyển lao từ
Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào một chiều cuối thu năm 1942 là bài thơ hay, tiêu biểu
cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh.
Mở bài 2:
Nguyễn Khải từng nói:“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật
trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở
các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy.
Có thể nói,tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong
quá trình xây dựng tác phẩm lớn”. Ta sẽ bắt gặp điều này
trong bài thơ Chiều tối”, bài thơ thứ 31 trong tổng số 134 bài thơ thuộc tập Nhật
kí trong tù của Hồ Chí Minh.
Mở bài 3:
Lê Quý Đôn từng
nói: “Thơ khởi phát tự lòng ta”. Đúng vậy, thơ là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn
giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ chính là tiếng nhạc, tiếng lòng của người
nghệ sĩ. Giống như “Một con ong phải bay một đoạn đường
bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để
làm nên một gam mật” (P. Povienko) cho đời. Bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh
là một trong những bài thơ như thế, được chưng cất từ một tâm hồn canh cánh nỗi
nước nhà của Bác khi phải lênh đênh nơi đất khách quê người. Bài thơ vừa mang vẻ
đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp hiện đại, thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống
con người. Phân tích nội dung và nghệ thuật bài thơ, chúng ta sẽ thấu hiểu điều
này.
Mở bài 4:
Đặng Thai Mai từng nói: “…Thơ thiên nhiên
trong tập Ngục trung nhật kí thật sự có những bài viết rất hay. Có những phác họa
sơ sài, chân thực và đậm đà, càng nhìn càng thú vị, như một bức tranh thủy mặc
cổ điển. Có những cảnh lộng lẫy sinh động như những tấm thảm thêu nền gấm chữ
vàng. Cũng có những bài thơ làm cho người đọc nghĩ tới những bức sơn mài thâm
trầm, rộn rịp…”. Quả đúng như vậy, đọc bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh
ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thơ vừa cổ điển vừa hiện đại trong từng
ý thơ như lời nhà phê bình nhận định.
Thân bài:
1. Hai câu thơ đầu: Bức tranh thiên
nhiên qua cảm nhận của nhà thơ.
“Quyện
điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô
vân mạn mạn độ thiên không”;
(Chim
mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm
mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Chiều tối là thời khắc
cuối cùng của một ngày và với một tù nhân như Bác, đấy cũng là chặng cuối cùng
của một ngày đày ải. Thời gian và hoàn cảnh như thế dễ gây nên trạng thái mệt
mỏi, chán chường, vậy mà ở đây cảm hứng thơ lại đến với Bác thật tự nhiên. Dường
như lúc ấy người đi ngước mắt nhìn lên bầu trời và chợt thấy cánh chim mỏi mệt
bay về tổ ấm, chòm mây chầm chậm trôi qua lưng trời- khung cảnh thiên nhiên đã
được phác họa bằng những nét chấm phá theo bút pháp cổ điển (dùng điểm nói
diện). Trong cảnh tượng ấy, tuy bài thơ không tả màu sắc mà người đọc vẫn cảm
thấy rừng núi chiều tối thật âm u, không hề gợi âm thanh mà nghe thật vắng vẻ,
quạnh hiu.
Trong thơ ca thơ ca cổ
điển phương Đông, cánh chim bay về tổ, về núi rừng thường mang ý nghĩa là biểu
tượng cho buổi chiều tà: “Chim bay về núi, tối rồi” (Ca dao), “Chim hôm thoi
thóp về rừng” (Truyện Kiều), “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi/ Dặm liễu sương sa
khách bước rồi” (Bà Huyện Thanh Quan), “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
(Tràng giang- Huy Cận),… Như vậy, cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không gian,
vừa mang ý nghĩa thời gian.
Trong thơ Bác cũng thế,
có khác chăng ở đây không phải cánh chim bay (quan sát trạng thái vận động bên
ngoài của sự vật) mà là cánh chim mỏi (cảm nhận rất sâu trạng thái bên trong
của sự vật, một cảm nhận của con người hiện đại trên cơ sở ý thức sâu sắc của
cái tôi cá nhân trước ngoại cảnh). Có thể thấy một sự gần gũi, tương đồng: Suốt
một ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi và người tù cũng mỏi mệt sau một ngày
vất vả lê bước đường trường- trong ý thơ ấy có biết bao sự hòa hợp, cảm thông
giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật thiên nhiên. Cội nguồn của sự cảm thông ấy
chính là tình yêu thương mênh mông của Bác dành cho mọi sự sống trên đời.
Câu thơ thứ hai: “Cô vân
mạn mạn độ thiên không” cần hiểu đúng nghĩa là “Chòm mây lẻ loi lững lờ trôi
qua lưng trời” (bản dịch đã không diễn tả được vẻ đơn độc và nhịp bay chầm chậm
của chòm mây qua những chữ cô vân mạn mạn). Câu thơ gợi nhớ thơ Thôi Hiệu “Ngàn
năm mây trắng bây giờ còn bay” (Hoàng Hạc lâu) và thơ Nguyễn Khuyến “Tâng mây
lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu).
Có điều trong thơ Bác đó
không phải là áng mây trắng ngàn năm gợi sự vĩnh hằng, cũng không phải là tầng
mây lơ lửng gợi sự không vĩnh viễn mà mang bao nỗi khắc khoải mơ hồ của con
người trước cõi hư không. Đây chỉ là một chòm mây quen thuộc trên bầu trời, nó
gợi cảm rất nhiều về cái cao rộng, trong trẻo, êm ả của một chiều thu nơi núi
rừng Quảng Tây. Với chòm mây ấy, không gian như mênh mông vô tận và thời gian
như ngừng trôi. Phải có một tâm hồn thật ung dung thư thái thì người tù mới có
thể dõi theo một chòm mây thong thả giữa bầu trời bao la. Hơn thế, chòm mây như
có hồn người, như mang tâm trạng, nó cô đơn, lẻ loi và lặng lẽ, lững lờ trôi giữa
không gian rộng lớn của trời chiều, nó mang nỗi buồn trong cảnh ngộ chia lìa:
cánh chim mải miết bay về rừng xanh, chòm mây trôi chầm chậm như ở lại giữa
tầng không.
Hai câu thơ này cũng gợi
nhớ hai câu thơ trong bài “Độc tọa Kính Đình sơn” (Một mình ngồi trên núi Kính
Đình) của Lí Bạch. “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn” (Bầy chim một
loạt bay cao/ Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình).
Có thể thấy, nếu cánh
chim trong thơ Lí Bạch bay mất hút vào cõi vô tận thì trong thơ Bác đó là cánh
chim của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống:
sáng bay đi kiếm ăn, tối về rừng tìm chốn ngủ. Áng mây của Lí Bạch bay nhàn
tản, gợi cảm giác thoát tục, còn áng mây trong bức tranh cảnh chiều hôm của Bác
toát lên cái vẻ yên ả, thanh bình của đời sống thường ngày. Dù sao hai câu thơ
vẫn thấm thía nỗi buồn vì cảnh buồn và người buồn, vì cánh chim bay về tổ gợi
niềm ước mong sum họp, chòm mây đơn độc trôi chầm chậm về phía trời xa gợi thân
phận lênh đênh trôi dạt nơi đất khách quê người, vì không biết tới bai giờ nhà
thơ mới được tự do như cánh chim và chòm mây trên bầu trời kia. Tuy vậy, vẻ đẹp
cổ điển của hai câu thơ đã thể hiện bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ, bởi
vì nếu không có ý chí và nghị lực, không có phong thái ung dung tự chủ và sự tự
do hoàn toàn về tinh thần thì không thể có những câu thơ cảm nhận thiên nhiên
thật sâu sắc và tinh tế như thế trong hoàn cảnh khắc nghiệt của tù đày.
2. Hai câu cuối: Bức tranh đời sống con người
“Sơn tôn thiếu nữ ma bao
túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ
hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô
tối
Xay hết lò than đã rực
hồng)
Về tấm lòng yêu đời của Người ở hai câu thơ
cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu
thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không
thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng
yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”.
Quả đúng như vậy, nếu
trong hai câu đầu, cảnh vật thiên nhiên hiện ra trong những nét chấm phá, phần
nào mang tính chất ước lệ cổ điển thì hình ảnh người lao động ở đây lại được
gợi tả một cách cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực. Chính nét vẽ đời
thường ấy làm cho bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại, hơn thế, trong sự hình dung về
cự li, khoảng cách với cánh chim và chòm mây (ở viễn cảnh), hình ảnh cô gái xay
ngô, hình ảnh con người (ở cận cảnh) nổi bật lên như là trung tâm của bức tranh
thiên nhiên.
Bức tranh vẽ cái thời
khắc đầu đêm bên xóm núi cho thấy Bác đã quên cảnh ngộ đau khổ của mình để cảm
nhận cuộc sống của nhân dân. Nó nói lên sự quan tâm, tình thương của Bác với
những người lao động nghèo và sự làm việc mà sự làm việc nặng nhọc được biểu
hiện qua âm điệu khắc khổ của lời thơ. Câu thơ thứ ba nguyên nghĩa là “Cô gái
xóm núi xay ngô” đó là một câu miêu tả chân thực, giản dị như đời sống hàng
ngày. Đến đây bài thơ từ bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức tranh đời sống,
từ cảnh trời mây, chim muông chuyển sang cảnh con người và lại là con người lao
động- đấy là xu hướng vận động trong cấu trúc bài thơ.
Thực ra trong những bài
thơ vịnh cảnh chiều hôm nổi tiếng thời xưa cũng thấp thoáng bóng người. Lom
khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (Qua Đèo Ngang- Bà
Huyện Thanh Quang). Nhưng ở đó có con người mà thiếu vắng sự sống, hình ảnh con
người chỉ tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời thiên nhiên.
Còn ở đây, trong bài thơ
của Bác, hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động và
chính cuộc sống lao động bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết
bao giữa núi rừng chiều tối âm u, heo hút. Nó đưa lại cho người đi đường lúc
chiều hôm chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của
con người, con người ấy tuy vất vả mà tự do.
Những chữ “ma bao túc” ở
cuối câu ba được điệp vòng ở đầu câu bốn “bao túc ma hoàn” đã tạo nên sự nối âm
liên hoàn, nhịp nhàng như diễn tả cái vòng quay không dứt của động tác xay ngô-
qua đó có thể thấy cô gái thật chăm chỉ, kiên nhẫn, cần mẫn với công việc của
chính mình. Đáng chú ý hơn, đến câu thơ này không gian rộng mở ban đầu ngày
càng được thu nhỏ lại: từ cảnh trời mây bao la đến cảnh cô gái xay ngô và cuối
cùng là cảnh bếp lửa hồng. Đồng thời câu thơ cũng xác định rõ hơn sự vận động
của thời gian, từ bóng tối ra ánh sáng.
Nói như giáo sư Lê Trí
Viễn: “Nguyên văn không nói đến tối mà tự nhiên nói đến: thời gian trôi dần dần
theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay của cối ngô, quay quay mãi, “ma
bao túc…bao túc ma hoàn…” và đến khi cối xay dừng lại thì “lô dĩ hồng”, lò đã
rực hồng, tức trời tối, trời tối thì lò rực lên”. Như vậy bếp lửa của cô gái
xay ngô đã hồng lên, nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối,
nhưng không phải đêm tối lạnh lẽo âm u, (theo quy luật cảm nhận của người xưa:
ấm ngày lạnh tối) mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng. Nếu hình
dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái chấm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài
hoa chấm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó đã làm tăng
thêm niềm vui và sức mạnh cho con người đang cất bước trên đường xa.
Cô gái, bếp lửa gợi tới
cảnh gia đình, ngô hạt xay xong, bếp đỏ hồng lại gợi tới công việc, sự nghỉ
ngơi và sum họp- thấp thoáng trong những hình ảnh ấy như có một ước mơ thầm kín
về mái ấm gia đình của người đang lưu lạc xa nhà, xa đất nước quê hương. Đấy là
tâm hồn nhà cách mạng đã vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để đồng cảm với niềm
vui đời thường. Bài thơ đã vận động từ ánh nắng chiều âm u, tăm tối đến ánh lửa
rực hồng, ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Nó cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm
lạc quan và yêu đời và tình yêu thương nhân dân của một con người “Nâng niu tất
cả chỉ quên mình” (Tố Hữu- Theo chân Bác).
Nghệ thuật tả cảnh trong
bài thơ vừa có nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu xưa
cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực với những nét dân giã đời thường). Ở
đây chủ yếu là gợi tả chứ không phải miêu tả, cho nên tính chất cô đọng, hàm
súc cao.
Ngôn ngữ trong bài thơ
được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả, vừa gợi cảm
(Quyện điểu, cô vân). Biện pháp điệp vòng ở câu ba và câu bốn. Chữ hồng” được
coi là chữ thần. Hoàng Trung Thông viết: “Chữ hồng trong nghệ thuật thơ Đường
người ta gọi là “con mắt của thơ” (thi nhãn) hoặc là nhãn tự” (chữ có mắt), nó
bừng sáng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi với 27 chữ khác dầu nặng mấy đến
chăng nữa. Với chữ hồng đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa
đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của
cô gái đáng yêu”.
Kết bài:
"Chiều tối" đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiếu sĩ Hồ Chí Minh". Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình, có lòng yêu thương rộng lớn, luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống con người trên đời, tâm hồn lạc quan hướng về tương lai và ánh sáng. Chính cách nhìn biện chứng về thời gian và sự sống, tình người tha thiết đã tạo nên giá trị to lớn cho thi phẩm độc đáo này.
Comments
Post a Comment