Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu- Học văn cô Hợp
Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
Mở bài 1
Nhà
phê bình Hoài Thanh khi nhận định về thơ Tố Hữu có viết: “Thái độ toàn
tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh”.
Nhận định rất đúng với cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu- người
được xem là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ một thanh niên
trí thức tiểu tư sản, được giác
ngộ lí tưởng, Tố Hữu trở thành một chiến sĩ cộng sản. Tập thơ “Từ
ấy” là tập thơ đầu tay đánh dấu thời điểm bừng sáng của tâm hồn và
lí tưởng cách mạng. Bài thơ “Từ ấy” có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách
mạng và tuyên ngôn của một nhà thơ. Để hiểu nội dung và nghệ thuật của
bài thơ, chúng ta cùng phân tích.
Mở bài 2
Nhà phê bình văn học Trần Đình Sử viết:
“Trong đời của mỗi con người có những giây phút đổi thay kì diệu, đánh dấu một
sự phát triển không thể đảo ngược của nhân cách. Lúc ấy thời gian như ngừng
trôi để trở thành vĩnh viễn, giữ mãi những dấu ấn không thể phai mờ. Đó là giây
phút tình yêu chợt đến với Xuân Diệu trong Nguyên đán: “Từ lúc yêu nhau
hoa nở mãi/ Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”. Thời điểm tiếp nhận lí tưởng cộng
sản, tự nguyện dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa của Tố Hữu cũng như vậy. Nó tạo
thành cái mốc Từ ấy”. Để hiểu bài thơ chúng ta cùng phân tích.
Mở bài 3
Nhà
phê bình văn học Hà Minh Đức viết: “Được sáng tác ở Huế tháng 7- 1938, Từ ấy là
bài thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời thơ Tố Hữu. Từ ấy đánh dấu thờ
điểm người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Kim Thành trở thành đảng viên Đảng Cộng sản
Đông Dương, trở thành người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, đánh dấu cuộc hội ngộ
kì lạ giữa lí tưởng cộng sản, tuổi trẻ và thơ. Cuộc hội ngộ kì lạ ấy đã tạo nên
chất men say của tình yêu đằm thắm với lí tưởng cách mạng và cuộc đời. Và trược
hết là một niềm vui trong trẻo, tin yêu, nhân hậu, niềm vui bắt gặp lí tưởng”.
Để hiểu bài thơ chúng ta cùng phân tích.
Thân bài
* Khái quát tác giả, tác phẩm:
Tố Hữu, quê Thừa Thiên
– Huế. Sớm giác ngộ CM. Sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Bài
thơ “Từ ấy” được viết vào tháng 7 – 1938 khi Tố Hữu được
kết nạp vào Đảng. Bài thơ mở đầu cho phần thơ “Máu lửa” trong tập thơ “Từ ấy”,
được chia làm ba khổ. Khổ 1: Niềm vui sướng mãnh liệt của nhà thơ khi gặp ánh
sáng lí tưởng. Khổ 2: Nhận thức mới về lẽ sống. Khổ 3: Chuyển biến sâu sắc
trong tình cảm của nhà thơ.
1. Khổ 1: Niềm vui sướng say mê khi bắt gặp ánh
sáng lí tưởng của Đảng.
*
Hai câu thơ đầu:
“Từ
ấy trong tô bừng nắng hạ
Mặt
trời chân lí chói qua tim”
Hai câu thơ đầu được viết theo bút
pháp tự sự, nhà thơ kể về một kỉ niệm không thể nào quên của cuộc đời mình. Từ
ấy là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và
đời thơ của Tố Hữu, khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động rất tích cực
trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết
nạp vào Đảng.
Được
đứng vào hàng ngũ của những con người chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, để khi nhắm
mắt xuôi tay không phải hổ thẹn bởi những năm tháng đã sống hoài, sống phí. “Cả
đời ta, ta chỉ hi sinh cho Tổ quốc”… Những người thanh niên đã hi sinh trong
kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Họ đã ra đi như “chưa từng có cuộc chia li”,
“Chí lớn chưa về bàn tay không,…Ba năm mẹ già cũng đừng mong”. Đó là lí tưởng
cao đẹp, lí tưởng một thời đại. Nhạc sĩ Trương Quốc Thắng cũng từng viết trong
bài “Tự nguyện”:
“Nếu
là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu
là hoa tôi sẽ là một đóa hướng
Nếu
là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là
người tôi sẽ chết cho quê hương”.
Lí tưởng của Đảng có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng nhân cách, suy nghĩ, tư duy, hướng phấn đấu cho mỗi cá
nhân. Đặc biệt là những thanh niên. Trước đó Phan Bội Châu 1920 từng viết:
“Thưa
các cô, các cậu, các anh
Đời
đã mới người càng them đổi mới
Mở
mắt thấy rõ rang tân vận hội
Ghé
vai vào xốc vác việc giang sơn…”
Đến đây đã hình thành một con đường rõ ràng
sau cuộc ra đi tìm đường cứu nước của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì Đảng đã được ra đời
1930. Sau đó có biết bao người thanh niên đã đi theo tiếng gọi của Đảng, bắt mạch
ngầm với cuộc đời, với nhân dân. Trong đó có Tố Hữu. Mốc thời gian được ông
chuyển tải trong trong một cụm từ đầy cảm xúc.
-
Bằng những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lí, chói qua
tim…” Tố Hữu khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sang mới làm bừng
sang tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàn nhẹ hay xuân dịu
dàng, mà là ánh sang rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn nữa, nguồn sang ấy còn là
mặt trời khác thường, mặt trời chân lí- một sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh
và ngữ nghĩa: Nếu mặt trời của đời thường tỏa ánh sáng, hơi ấm và sức sống thì Đảng
cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo
hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Nhìn chung cách gọi lí tưởng như vậy
thể hiện thái độ thành kính, ân tình.
-
Thêm nữa, những động từ mạnh “bừng”, (chỉ ánh sang phát ra đột ngột),“chói”
(chỉ ánh sang có sức xuyên mạnh) càng khẳng định, nhấn mạnh ánh sáng của li tưởng cộng sản
như một nguồn sáng mới, nguồn sáng vĩ đại làm bừng sáng cả trí tuệ và tâm hồn
nhà thơ, đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản, mở ra một
chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm.
*
Hai câu thơ sau:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”
Hai câu thơ sau
được viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so
sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với
lí tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy sức sống với màu sắc, hương thơm
của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca
hót… Đối với vườn hoa lá ấy còn gì đáng quý hơn là ánh sáng mặt trời? Đối với
tâm hồn người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, còn gì đáng quý
hơn khi có lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt?
Ánh sáng của Đảng chiếu
rọi từ trong sâu thẳm tâm hồn nhà thơ, đánh thức xúc cảm, tình yêu, sự gắn kết
với cuộc đời. Nhà thơ sử dụng cụm từ “trong tôi”, “hồn tôi”. Đó là cõi sâu thẳm
nhất từ đời sống bên trong con người. Khổ thơ mở đầu khẳng định vai trò ánh
sáng lí tưởng đối với tâm hồn nhà thơ là tình yêu, niềm say mê của nhà thơ khi
bắt gặp lí tưởng cộng sản.
Một triết gia đã nói: “Anh sẽ không làm được gì
nếu như anh không có mục đích và anh sẽ không làm được gì cao cả nếu mục đích của
anh thấp hèn”.
Trong
bài Người đi tìm hình của nước Chế Lan Viên viết:
“Lũ
chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc
mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh
phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một
mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”.
Đó là cuộc sống của biết bao trí thức tiểu
tư sản đầu thế kỉ XX. Khi chưa được giác ngộ lí tưởng, họ sống trong “giấc mơ
con đè nát cuộc đời con”. Tố Hữa cũng vậy, “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời/ Vẩn
vơ theo mãi vòng quanh quẩn/ Muốn thoát than ôi bước chẳng rời”. Ánh sáng lí
tưởng soi rọi, đánh thức nhà thơ bừng dậy trong một mục tiêu rõ ràng. Mục tiêu
gắn liền với lí tưởng. Nên ở đây khi tìm thấy lẽ sống, lí tưởng, tâm hồn nhà
thơ như một vườn hoa lá. Không phải là sự bơ vơ như trong Thơ mới mà là tình
yêu thiết tha với cuộc đời. Chính ánh sáng của Đảng làm cho nhà thơ luôn cảm
thấy trái tim mình ấm nóng. Tình yêu tha thiết của nhà thơ với nhân dân, với dân
tộc được ông bộc lộ rất chân thành, mãnh liệt.
Tóm
lại, Tố Hữu sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón nhận ánh sáng
mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người có ý nghĩa hơn.
Nhưng Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và cuộc sống mới ấy của tâm hồn cũng
là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật,
trái lại, đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho
hồn thơ.
2. Khổ 2: Những nhận thức mới mẻ về lẽ sống.
*
Hai câu thơ đầu:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với tram nơi”
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản
và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi “cá nhân” chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí
tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa
“cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người.
Với
động từ buộc, câu 1 là một ngoa dụ thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và
quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân để
sống chan hòa với mọi người (trăm nơi là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp
mọi nơi). Ở phần thơ “Máu lửa” nhà thơ đã hướng đến những con người lao khổ, đó
là những em bé lang thang, những thiếu nữ bán thân, những người mẹ mất con, lão
đầy tớ,… những con người cơ khổ, hiện thân của một dân tộc cần lao, lao khổ.
Nên nhà thơ buộc lòng với họ, với đất nước, quê hương mình.
Chế
Lan Viên từng viết:
“Ôi
Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi, con sông”.
Lí
tưởng đó là con người gắn bó sâu sắc như một định mệnh với dân tộc mình, quê
hương mình. Như vậy, mới vì nhân dân quên mình, hi sinh.
Với từ trang trải ở câu 2, có thể
liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu
xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. Sự gắn kết không phải bên ngoài mà
trong sâu thẳm trái tim, sâu thẳm tâm hồn. Đau cùng nỗi đau dân tộc, Tổ quốc.
Nên phải đấu tranh tận cùng để giành tự do, độc lập.
*
Hai câu thơ sau:
“Để
hồn tôi với bao hồn khổ
Gần
gũi nhau them mạnh khối đời”.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương
con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình hữu
ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối quan hệ với mọi người nói chung,
nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ở câu 4, khối đời là một ẩn
dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết
chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung, với tinh thần quốc tế vô
sản, gắn kết toàn dân tộc thành một khối thống nhất. Có thể hiểu: khi “cái tôi”
chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào một tập thể cùng lí tưởng thì
sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội.
Tóm lại, Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và
trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm
vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức
mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua
đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà
chủ yếu là cuộc sống của nhân dân.
3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của
Tố Hữu.
“Tôi
đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”…
Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là
một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ
sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để
có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình
thân yêu ruột thịt. Những điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước
lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia
đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân
mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm,
xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới
những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất
vả, thường xuyên dãi dầu mưa
nắng
để kiếm sống), những em nhỏ “không áo cơm cù bất cù bơ” (những em bé không nơi
nương tựa, phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ đó
cũng có thể thấy được lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái
của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp người phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ
ấy mà người thanh niên Tố Hữa sẽ hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng chính
là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu (cô gái giang hồ trong “Tiếng
hát sông Hương”, chú bé đi ở trong “Đi đi em”, ông lão khốn khổ trong “Lão đầy
tớ”, em bé bán bánh trong “Một tiếng rao đêm”,…). Nhà thơ hướng đến những con
người lao khổ, yêu thương họ như máu thịt. Chính tình cảm đó giúp ông có sức
mạnh tự bên trong để hi sinh cho một lí tưởng đẹp đẽ. Chế Lan Viên viết trong
Tiếng hát con tàu: “Con đã đi nhưng con cần vượt nữa/ Cho con về gặp lại mẹ yêu
thương,…”. Tác giả đã gọi anh, em, con,… Tố Hữu cũng vậy. Phải coi mình là con
của vạn nhà… phải đặt mình như vậy mới toàn tâm, toàn ý vì họ mà đau, mà sống,
chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Đến
đây có thể thấy, nhà thơ đã đứng trên quan điểm của giai cấp vô
sản, nhận thức sâu sắc về mối liên hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với
nhân loại cần lao. Thể hiện ý thức tự nguyện chiến đấu, hi sinh, bởi gia đình,
đất nước đã hòa làm một. Ngôn từ dung dị, sử dụng nhiều biện pháp tu từ ẩn dụ,
so sánh, điệp từ, điệp ngữ; nội dung đậm chất trữ tình chính trị.
Bài thơ là lời tuyên ngôn cho tập “ Từ ấy”, là lời tâm
nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cộng sản. Với hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ mộc mạc, giàu tính dân tộc, gợi cảm,
giàu nhạc điệu, nhẹ nhàng sâu lắng; giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn. Thơ gần gũi với hình thức thơ mới, dùng nhiều
hình ảnh tượng trưng… đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả bao thế hệ.
Qua bài thơ, lớp trẻ càng thêm yêu thiên nhiên đất nước và sống có mục đích, lí
tưởng trong sáng hơn.
Comments
Post a Comment