Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Mở bài 1:
“Say
mê sống và cũng say mê sáng tạo, Huy Cận là người đam mê thơ ca từ nhỏ. Có lẽ
không chỉ vì không khí gia đình, quê hương; mà căn bản vì ông có một tâm hồn nhạy
cảm. Xuân Diệu nhận xét rằng Huy Cận đặc biệt nhạy cảm với những vùng hoang vắng
trong tâm hồn. Hẳn đây là một trong những “tố chất” đặc biệt để hình thành hồn
thơ của thi sĩ là tác giả của tập “Lửa thiêng” – tập thơ dựng lên cả một thế giới
nổi tiếng với vẻ quạnh vắng cô liêu”. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của tập
thơ này thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật của thơ Huy Cận. Muốn hiểu bài
thơ, chúng ta cùng phân tích.
Mở bài 2:
“Huy Cận lượm lặt những
chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc
nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành
bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại
trong văn thơ những dấu tích không bao giờ tan được…”. Điều này được thể hiện
rõ trong tập “Lửa thiêng” - tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, một nỗi đau
đời. Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,…đã khơi lại cái mạch sầu mấy
nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này (Hoài Thanh). Và
chúng ta không thể không nhắc đến bài “Tràng giang” viết vào mùa thu 1939 in
trong tập thơ này là một trong những bài thơ hay tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật thơ Huy Cận. Để hiểu bài thơ chúng ta cùng phân tích.
Thân bài:
Huy
Cận là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, một nhà
thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Hoài Thanh nói: Huy Cận và Xuân Diệu làm
thành xóm thơ Huy Xuân trong làng Thơ mới. Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của cảm thức
về thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ cảm thức về không gian. Huy Cận hay hướng
ngòi bút của mình tới vũ trụ bao la về sông dài biển rộng. Bài Tràng giang nằm
trong cảm thức về không gian đó. Đây là bài thơ đặc sắc của Huy Cận, in trong tập
“Lửa thiêng”, xuất bản năm 1940. Tràng giang là bài thơ không dài nhưng đã đem
đến cho người đọc cả một bức tranh thiên nhiên và tâm trạng.
Bài
thơ hấp dẫn người đọc ngay từ nhan đề “Tràng giang” (sông dài), đó là dòng sông
cụ thể khái quát. Tác giả sử dụng từ Hán Việt mà không dùng từ Việt tương
đương. Nghiêng về sắc thái cổ xưa, cổ kính, trang trọng, tao nhã (Việt: gần
gũi, thân mật, cụ thể, sinh động). Điệp vần “ang” có độ vang, gợi cảm giác như
dòng sông càng mênh mang vĩnh hằng. Nếu viết là “Trường giang” vừa trùng tên với
con sông Trung Quốc vừa không thể hiện được đặc sắc nghệ thuật.
Câu
thơ đề từ nằm ngoài bài thơ nhưng tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ
nghệ thuật của tác giả. Tuy chỉ có 7 chữ nhưng đề từ này đã nói được một phần
quan trọng hồn cốt của toàn bộ tác phẩm. Cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (buâng
khuâng tức là có những cảm xúc ngỡ ngàng luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau)
trước cảnh vũ trụ bao la bát ngát (trời rộng, sông dài).
1. Khổ thơ đầu: Dòng sông và con người,
không gian bao la và tâm trạng cụ thể, đó là một tứ thơ cổ điển:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Bài
thơ có tựa đề là Tràng giang, câu thơ
đầu tiên nhắc lại tựa đề. Tràng giang
chứ không phải trường giang; mặc dù tràng giang và trường giang đều có chung
một nghĩa. Nhờ có cách điệp vần ang, tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang
xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu; tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả
bài thơ. Mặt khác, tràng giang còn gợi lên hình ảnh một con sông không những
dài mà còn rộng. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải
ở nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khơi gợi- khơi gợi được cả xúc cảm và ấn
tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và theo
thời gian (điệp điệp).
Huy
Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng
khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XĨ. Tuy vậy, Huy Cận còn là người
rất trân trọng vốn thơ ca dân tộc và thích thơ Đường. Trong sáng tác của ông,
người đọc dễ dàng cảm nhận được dấu ấn của Đường thi, cũng như thơ tượng trưng
Pháp. Có điều đáng quý là chúng đã được Việt hóa, nói cho đúng là được Huy Cận
hóa một cách nhuần nhị.
Ở
khổ thơ đầu cũng như toàn bài thơ Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã
được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đối về ý chứ không bị câu thúc về
niêm luật như cách đối trong thơ cổ. Câu thơ đầu phảng phất phong vị cổ điển:
Ca dao viết: “Sóng bao nhiêu gợn, dạ sầu bấy nhiêu”.
Bài
Đăng cao” của Đỗ Phủ
“Rào
rào lá trút rừng cây thẳm
Cuồn
cuộn sông về sóng nước tuôn”
Từ
ngày còn ngồi trên ghế nhà trường đã thấm sâu vào hồn thơ Huy Cận. Ở Đỗ Phủ đối
xứng trong sự đối chọi. Ở Huy Cận cũng là đối xứng nhưng là sự đối xứng tương đồng.
Nghệ
thuật đối ý và đối xứng trong thơ Huy Cận, một mặt làm cho giọng điệu bài thơ
uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít
bài thơ viết theo lối Đường luật hồi đầu thế kỉ XX; mặt khác nó vẫn phát huy được
một trong những thế mạnh của thể loại này, tạo nên không khí trang trọng, sự
cân xứng, nhịp nhàng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như điệp điệp, song
song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính.
Nếu
ba câu thơ trên phảng phất phong vị cổ điển thì câu thơ thứ tư mang nét hiện đại.
Thơ xưa thường hướng tới vẻ đẹp tao nhã, mĩ lệ. Ở đây tác giả đưa hình ảnh cành
củi khô trôi nổi trên dòng sông. Đây là chi tiết rất thực trong cuộc sống, chỉ
có trong thơ hiện đại. Nói cụ thể hơn Tràng giang là sản phẩm của phong trào
Thơ mới (1932- 1945). Đúng thế, Tràng giang hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm
xúc: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Tác
giả sử dụng nghệ thuật đối lập. Củi một cành đối lập với bao
dòng nước ngược xuôi. Gớt nhấn mạnh: “Cô đơn là điểm xuất phát của nghệ
thuật”. Câu nói này phù hợp với tâm lí chung của văn học lãng mạn. Hợp với Huy
Cận.
Tác giả còn dùng nghệ thuật đảo ngữ. Đáng lẽ nói: “Một cành củi khô lạc
mấy dòng”. Còn có nghệ thuật tăng tiến, giảm dần. Một câu thơ 7 chữ mà vỡ ra
thành 6 mạch cô đơn.
Tại
sao tác giả dùng củi mà không dùng cây? Vì củi nối đến sự khô héo. Tại sao tác
giả dùng một mà không dùng vài? Vì một tô đậm sự đơn chiếc, lẻ loi. Tại sao tác
giả dùng cành mà không dùng thân? Vì cành nhỏ bé, héo tàn. Tại sao tác giả dùng
khô mà không dùng tươi? Vì khô cũng nói đến sự héo tàn. Tại sao dùng cành củi
khô mà không dùng cánh bèo? Vì bèo không có sức gợi như cành củi khô.
Vào
những năm 30 của thế kỉ trước, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi vì trong đó xuất
hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô. Hình ảnh một cành
củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh trên dòng sông mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi
buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.
2. Khổ thơ thứ hai: Nỗi buồn càng như
thấm sâu vào cảnh vật:
Lơ
thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu
tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng
xuống trời lên sâu chót vót;
Sông
dài trời rộng bến cô liêu.
Theo
Huy Cận từ đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: “Non Kì quạnh quẽ
trăng treo- Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” gợi khung cảnh chiến trường, gợi sự
thê lương, thê thảm. Hơn nữa cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu cùng gợi lên được sự
buồn bã, quạnh vắng, cô đơn,… Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” lâu nay
vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ đâu (có và không có tiếng chợ chiều
đã vãn). Nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Thời gian ở thời điểm nỗi buồn được cộng
lại, được nâng lên (vãn chợ chiều). Trong “Hai đứa trẻ” cũng có cảnh ngày tàn,
chợ tàn. Dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ
cũng gợi thêm một nét buồn. Chợ chiều khi xưa thường buồn tẻ, không có được cái
nhộn nhịp, hào hứng của chợ họp buổi sáng. Ở đây, chúng ta thiên về cách hiểu:
Ngay cả tiếng chợ chiều đã vãn ở một làng xa nào đấy cũng không có nữa, tất cả
đều vắng lặng, cô tịch; bởi lẽ, trong toàn bộ bài thơ, dường như Huy Cận muồn
phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người (không tiếng chợ chiều nằm trong hệ
thống không một chuyến đò và không một cây cầu ở khổ thơ sau), chỉ còn cảnh vật,
đất trời mênh mông, xa vắng,…
Sự
mênh mông rợn ngợp, sầu vũ trụ ở hai câu cuối:
Nắng
xuống trời lên sâu chót vót
Sông
dài, trời rộng, bến cô liêu.
Không
gian được mở ra theo nhiều chiều. Có nắng xuống trời lên bên trên, sông dài trời
rộng bên dưới. Sâu chót vót là nói đến độ cao nhưng ở đây lại nói độ sâu. Tác
giả nhìn bầu trời dưới đáy sông sâu. Không gian mở rộng bằng những động từ xuống lên; ở dưới dài, rộng
bằng những tính từ được động từ hóa bởi được chi phối bằng
những động từ ở trên. Vì vậy, dòng sông đã dài lại dài thêm. Bầu trời đã rộng lại
rộng thêm. Sông dài, trời rộng đối lập, tạo tương phản với bến cô liêu, tạo nên
nỗi sầu vũ trụ.
Có
thể thấy đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng
và đẩy cao thêm. Sâu gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn
cùng. Chót vót khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng, càng sâu,
càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài với bờ bến lẻ loi,
xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người ở
đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và
không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng
của thời gian” (Hoài Thanh).
3. Khổ thơ thứ ba: Cảnh có màu sắc tươi tắn hơn, nhưng càng buồn
hơn. Cảnh mênh mông phủ định với hai lần không đò, không cầu
Vẫn
trong mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ đầu, nỗi buồn càng như được khắc sâu
qua hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền
và nước như cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô lưu lạc bồng bềnh
trên sóng nước từ khổ thơ thứ nhất đến khổ thơ này; ấn tượng về sự chia li, tan
tác được láy lại một lần nữa càng gợi thêm về một nỗi buồn mênh mông.
Câu
thơ: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Tác giả dùng nghệ thuật đảo ngữ đưa lặng lẽ lên đầu nhằm nhấn mạnh sự lặng lẽ, dường như không
có mối quan hệ nào, mỗi sự vật là một thế giới chia lìa. Những cánh bèo gợi sự
đông đúc mà không hề đông vui. Vì sao vậy? Vì cánh bèo thường được dùng trong văn
chương truyền thống để nói những thân phận nhỏ bé trôi dạt, trôi nổi. Không biết
trôi dạt về đâu. Cảm nhận tâm trạng bơ vơ của các nhà thơ mới nói chung.
Cảnh
mênh mông vắng lặng không đò cũng không cầu. Dấu hiệu sự sống của dòng sông phải
có đò có cầu. Bởi vì nó sẽ xóa đi những khoảng trời li biệt, nối liền không
gian xa cách (Bài “Quê hương”- Đỗ Trung Quân). Ở bài Tràng giang đã không đò lại
không cầu. Tràng giang không gợi hình
bóng con người. Gợi nỗi buồn cô đơn, vắng lặng, ngăn cách chia lìa. So sánh
“Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) “Đã vắng người sang những chuyến đò”. Vắng người
sang khi gió thu về nhưng vẫn có người. Tràng giang buồn hơn “Đây mùa thu tới”.
Toàn
cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. “Không một
chuyến đò” và dường như không có một cây cầu, nhờ chúng có thể tạo nên sự gần
gũi giữa con người với con người; mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) với thiên
nhiên (bãi vang) xa vắng, hoang vu. Vì thế nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là
nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi
buồn trước cuộc đời.
Như
vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Tực
ra điều này còn có thể nhận thấy ở khổ hai (Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều) và
ở khổ bốn (Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà), nhưng có lẽ rõ nhất vẫn là ở khổ
thơ thứ ba này. Bởi vậy, có thể nói, thái độ phủ nhận thực tại nằm ngay trong kết
cấu của bài thơ.
4. Khổ thơ cuối: Kết tinh nội dung
nghệ thuật của bài Tràng giang
Nhà
thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của
thơ mới và vẫn thể hiện khá rõ nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận. Ở đây thiên
nhiên tuy buồn nhưng thật tráng lệ.
Hai
câu đầu: Cảnh cổ điển và hiện đại. Hình ảnh cánh chim trong hoàng hôn. Tác giả
dùng nghệ thuật ước lệ. Thơ xưa nói về buổi chiều thường điểm xuyết những cánh
chim (“Chim bay về núi tối rồi” (ca dao), “Chim hôm thoi thóp về rừng” (Truyện
Kiều), “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan),...). Mùa thu những
đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào những
áng mây đó, phản chiếu lấp lánh như những núi bạc. Chữ đùn” khiến ta nhớ đến
thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Chữ “vời” khiến ta nhớ Nguyễn Du “Bốn
phương mây trắng một màu/ Trông vời cố cuốc biết đâu là nhà”. Hình ảnh “mây cao
đùn núi bạc” tạo được ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên, lớp lớp mây như
đùn lên từ mặt đất. Trước cảnh sông nước mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện
lên một cánh chim bé bỏng, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống.
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà thường dễ gợi nỗi buồn xa vắng.
Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập: đối lập
giữa cánh chim đơn độc, nhỏ bé với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng điều này
đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng
buồn hơn.
Hai
câu cuối: mang phong vị cổ điển. Từ “dợn dợn” gợi cảm giác hình ảnh những làn
sóng nhấp nhô liên tiếp. Sóng nước, sóng lòng cùng hòa quyện vào nhau và trực
tiếp nói lên tâm trạng buồn nhớ quê hương của tác giả. Ta liên tưởng đến câu
thơ của Thôi Hiệu (Hoàng Hạc lâu) “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang
thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai). Đây là một trong những câu thơ hay nhất nói về nỗi buồn xa xứ. Tác giả
dùng nghệ thuật phủ định để khẳng định “không khói hoàng hôn là phủ định, cũng
nhớ nhà” là khẳng định. Nỗi buồn của nhà
thơ mới như rõ nét hơn. Mặc dù mượn ý thơ xưa nhưng Huy Cận có sự sáng tạo,
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Vì nỗi nhớ quê hương đã in sâu vào trong
tâm khảm. Chúng ta không nói Huy Cận giỏi hơn nhà thơ đời Đường, mà mỗi người một
cách thể hiện, dường như Huy Cận buồn hơn. Huy Cận ở giữa đất nước nhưng đất nước
đang bị kẻ thù đô hộ nên vẫn thấy nhớ quê hương.
Như
vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này
cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà Thơ mới, trước hết chính là nỗi buồn của
cả thế hệ Huy Cận, cả dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt, dưới thời thuộc
Pháp. Vả chăng, có lẽ nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ quan niệm mĩ học của
các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn.
Cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau vẫn là cái buồn trong sáng, góp
phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc.
Bài
thơ có ý vị cổ điển, tạo được những vang hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể
thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ
thống từ láy (mười lần trong 16 dòng thơ) và cách ngắt nhịp truyền thống, chất
cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói sóng nhớ đến quê
hương- Lầu Hoàng Hạc, Huy Cận không cần có khói sóng- tức là không cần có cái gợi
nhớ- mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường
trực hơn và cháy bỏng hơn. Vì thế, nó hiện đại hơn.
Cổ
kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi, nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ rất
Việt Nam. Dòng sông sóng lượn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh,
cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà,… thật
gần gũi với người Việt Nam chúng ta. Đọc bài thơ này, có người nhớ đến cái làng
ở vùng sơn cước heo hút bên bờ sông Thâm, tỉnh Hà Tĩnh- nơi chôn rau cắt rốn của
Huy Cận.
Kết bài:
Lòng
yêu nước của các nhà thơ mới thầm kín nhưng không kém phần thiết tha. Mở đầu
bài thơ là cảnh thiên nhiên. Khép lại bài thơ là nỗi buồn nhớ quê hương. Mạch cảm
xúc là đi từ tình yêu thiên nhiên đến tình yêu quê hương đất nước. Xuân Diệu nhận
xét bài Tràng giang: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do
đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”. Huy Cận ca hát quê hương đất nước
bằng Tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ nên càng có sức lay động mạnh mẽ tình yêu quê
hương đất nước trong trái tim mọi người. Sóng Hồng cũng nói: “Thơ của thi sĩ
lãng mạn lại tìm thấy sự đồng điệu của tâm hồn một chiến sĩ cách mạng”. Đó là
dư âm tạo nên sức sống vượt thờ gian cho Tràng giang và Huy Cận.

Comments
Post a Comment