Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dã của Hàn Mặc Tử
Phân tích bài
thơ Đây thôn Vĩ Dã của Hàn Mặc Tử
Mở bài 1:
Hàn Mặc Tử-
một hiện tượng độc đáo trong tư duy thơ Việt Nam. Sinh thời nhà thơ Chế Lan
Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một
ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình“.
Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi
sĩ có diện mạo thơ vô cùng phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần
thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện
tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Điều này
được thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm của ông. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác 1938, in trong tập “Thơ Điên” về sau đổi
thành “Đau thương” là bài thơ gợi cảm hứng
từ mối tình của Hàn Mặc Tử với cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dòng
sông Hương xứ Huế thơ mộng, trữ tình.
Mở bài 2:
Hàn Mặc Tử- một trong những đỉnh cao của
phong trào Thơ mới. Một trong những nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện
đại. Chế Lan Viên từng nói: “Trong giai đoạn 1930- 1945 còn lại của thời kì này
một chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử”. Ông là một thi sĩ “đoản mệnh trong đời
nhưng lại trường thọ trong nghệ thuật”. Những bài thơ của Hàn Mặc Tử còn lại đến
bây giờ mà bụi thời gian không mờ. Một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn luôn quằn
quại đau thương. Dường như thi sĩ có sự đấu tranh giằng xé giữa thể xác và linh
hồn; một bên là siêu thoát, một bên là trần thế; một bên là đau đớn, điên loạn,
một bên là trong sáng thuần khiết. Bài Đây thôn Vĩ Dạ (1938) là minh chứng tiêu
biểu cho phong cách thơ của Hàn Mặc Tử, nói lên bức tranh thiên nhiên, tâm trạng
và tình yêu thiên nhiên, yêu đời của Hàn Mặc Tử. Để hiểu bài thơ, chúng ta cùng
phân tích.
Xuất
xứ bài thơ khá đặc biệt. Trong thời gian làm nhân viên Sở Đạc điền Bình Định (khoảng
1932- 1933), Hàn Mặc Tử có thầm yêu Hoàng Thị Kim Cúc quê ở Vĩ Dạ nhưng sống ở
Quy Nhơn, ít lâu sau Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, khi mắc bệnh phong, trở lại
Quy Nhơn thì Kim Cúc đã theo gia đình về quê, hai người có thư từ qua lại. Một
lần, Kim Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm thiếp vẽ phong cảnh Huế có hình người
chèo đò trên sông Hương với lời thăm hỏi chúc thi sĩ bình phục. Sau đó, khoảng
1939 Kim Cúc nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ do Hàn Mặc Tử tặng kèm theo mấy
dòng cảm tạ chân thành.
Như
vậy, tấm thiệp và những lời thăm hỏi của Kim Cúc đã gợi cảm hứng để Hàn Mặc Tử
viết Đây thông Vĩ Dạ, thể hiện tình
yêu thầm kín của mình, tâm trạng của mình trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy
nhiên, đây chỉ là duyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên
nhiên, với cuộc sống con người.
1. Khổ thơ thứ nhất: Cảnh đẹp thôn Vĩ
lúc bình minh.
Câu
mở đầu “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
là câu hỏi nhưng mang nhiều sắc thái, vừa gợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng
và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ (hay đây là lời
của chính tác giả phân thân để tự trách, tự hỏi mình, lẽ ra việc đáng làm, cần
làm là về thăm thôn Vĩ thì nay đã không thể. Đây khao khát đắm say, là ao ước
thầm kín của người đi xa được về lại thôn Vĩ). Về từ ngữ tác giả dùng rất tinh
tế, nhà thơ không viết không viết hai chữ về
thăm có vẻ xã giao mà dùng hai chữ về
chơi mang sắc thái thân mật, tự nhiên, chân tình hơn. Thực ra câu hỏi như vọng
lên từ một phương trời xa xôi ấy đã là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà
thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu về xứ Huế, trước hết là
về Vĩ Dạ, nơi có người mà nhà thơ thương mến và đẹp nhất là cảnh thôn Vĩ trong
ánh bình minh.
Hai câu tiếp theo
cho thấy trong hồi tưởng của mình, Hàn Mặc Tử không tả mà chỉ gợi những gì ấn
tượng mạnh mẽ và sâu sắc còn lưu lại trong tâm trí người ở xa. Cảnh vừa mang
nét đẹp chung, vừa mang vẻ đẹp riên của Vĩ Dạ. Vẻ đẹp chung là hàng cau, ngôi
nhà, hàng rào. Những vẻ đẹp này thường có ở nhiều miền quê. Sau này trong bài
“Nhớ” của Hồng Nguyên viết “Nắng chiều đột kích những hàng cau”.
Điều
đáng nói ở đây là vẻ đẹp riêng trong thơ Hàn Mặc Tử, câu thơ “Nhìn nắng hàng
cau nắng mới lên” như phác qua cái nhìn từ xa tới, chưa đến Vĩ Dạ nhưng đã thấy
những hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên những cây khác, những tàu lá
cau lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng mai. Đây là một quan sát rất tinh tế:
cái đẹp của thôn Vĩ không phải do nắng hay do hàng cau mà là do nắng hàng cau,
do sự hài hòa của ánh nắng vàng rực rỡ trên hàng cau tươi xanh. Đặc biệt, câu
thơ có 7 chữ thì đã có hai chữ nắng, tưởng như Hàn Mặc Tử đã gợi đúng đặc điểm
của nắng miền Trung: nắng nhiều và ánh nắng chói chang, rực rỡ ngay từ lúc bình
minh; không những thế Hàn Mặc Tử còn gợi được vẻ đẹp của nắng ở nơi đây, đó là
nắng mới lên thật trong trẻo, tinh khiết, có cảm giác ánh nắng ấy đã làm bừng
sáng cả khoảng trời hồi tưởng của nhà thơ. Trong thơ Hàn cũng hay nói đến nắng:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan”, “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” (Mùa
xuân chín),… nhưng đây là nắng đập mạnh vào giác quan.
Vĩ
Dạ còn mang vẻ đẹp riêng với những miệt vườn. Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh
như ngọc” lại là cái nhìn thật gần của người như đang đi trong khu vườn tươi đẹp
của thôn Vĩ. Có thể coi cái thần thái của thôn Vĩ là vườn cây, vườn bao bọc
quanh nhà, gắn với ngôi nhà thành một cấu trúc thẩm mĩ xinh xắn mà Xuân Diệu từng
có cảm giác “Giống như bài thơ tứ tuyệt” (Đường vô miền Trung). Cũng vì là cấu
trúc vườn- nhà cho nên vườn được chăm saocs chu đáo, những khóm hoa, cây cảnh vốn
đã xanh tươi lại được những bàn tay khéo léo chăm sóc nên càng thêm đẹp thêm
tươi. Ở đây chỉ với một chữ mướt Hàn Mặc Tử đã gợi được sự chăm sóc ấy, gợi được
vẻ tươi tốt, đầy sức sống của vườn cây cũng như cái sạch sẽ, láng bóng của từng
chiếc lá cây láng bóng dưới ánh mặt trời; còn ý thơ “Vườn ai mướt quá” gợi lên
vẻ đẹp non tơ, mượt mà, đầy xuân sắc. “Quá” thông thường là từ chỉ mức độ. Đặt
trong văn cảnh này như lời cảm thán mang sắc thái ngợi ca, gợi âm hưởng reo vui
ngỡ ngàng. Trong khi đó “xanh như ngọc” là một so sánh thật đẹp gợi hình ảnh những
chiếc lá xanh mướt, mượt mà được nắng mới lên, cái ánh nắng mặt trời rực rỡ buổi
sớm mai chiếu xuyên qua trở nên có màu xanh trong suốt và ánh lên như ngọc. Xanh
như ngọc cũng gợi lên vẻ rạng rỡ nhưng không chói lóa, mà mát dịu. Đó là, màu
xanh không phải do ánh sáng bên ngoài mà là màu xanh tỏa ra từ bên trong khi
còn ướt sương đêm. Hoài Thanh nói: “Thơ Hàn Mặc Tử có những câu thơ đọc lên như
rưới vào lòng một ngồn sáng láng”. Phải là một người có tình yêu tha thiết với
thiên nhiên, với cuộc sống, có ân tình thật sâu sắc, đậm đà với thôn Vĩ mới lưu
giữ được tâm trí những hình ảnh sống động và đẹp đẽ như thế.
Đến
câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”; sự xuất hiện của con người càng làm
cho cảnh vật thêm sinh động, có lẽ đó là chủ nhân của vườn ai. Tuy vậy, sự xuất
hiện của con người thật kín đáo, rất đúng với bản tính của người Huế, chỉ thấp
thoáng sau những chiếc lá trúc là khuôn mặt chữ điền, khuôn mặt của người ngay
thẳng, cương trực, phúc hậu theo quan niệm thời xưa. Ở đây một lần nữa ta thấy
ngòi bút tinh tế của Hàn Mặc Tử: Trước khuôn mặt ấy, “lá trúc phải che ngang” để
tôn rõ thêm nét chữ điền. Với câu thơ này, Hàn Mặc Tử càng gợi rõ hơn cái thần
thái của thôn Vĩ: cảnh xinh xắn, người phúc hậu, thiên nhiên và con người hái
hòa với nhau trong một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng.
2. Khổ thơ thứ hai: Hoài niệm về cảnh
sông nước- đêm trăng
Ở
khổ thơ này, tâm trí Hàn MẶc Tử hướng về một hình ảnh không thể tách rời thôn
Vĩ Dạ, đó là dòng sông Hương với hai nét tiêu biểu cho xứ Huế là êm đềm và thơ
mộng, đồng thời ẩn sâu trong đó là biết bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ. Trong
hai câu đầu, Hàn Mặc Tử tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu khoan thai của xứ Huế. Gió
mây nhè nhẹ bay đi, dòng nước chảy lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Đáng chú ý là
sắc thái cảm xúc của hai câu thơ này, vì nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và dòng sông. Mở đầu là gió, kết
cũng là gió; gió đóng khung trong gió, mây khép kín trong mây. Có sự phi lí về
hiện thực khách quan nhưng hợp lí về logic nghệ thuật. Thường chúng vẫn đi với
nhau: gió thổi mây bay và nhờ gió mà dòng sông mới có sóng, có sự sống động,
còn ở đây mây và gió lại rời xa nhau. Sự chuyển đông ngược chiều của gió mây
làm tăng thêm cái trống vắng của không gian; hay nói đúng hơn rất ít mây và
gió, cho nên dòng sông lặng lẽ buồn thiu và cây cỏ bên bờ chỉ lay động rất nhẹ.
Nhìn chung, đó là một hình ảnh đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phảng
phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự thờ ơ, xa cách của cuộc đời
đối với mình.
Hai
câu thơ sau cho thấy tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình
yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo, vì dòng
sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp
lánh ánh trăng vàng, hay đấy là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho
không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Sông trăng được hiểu là ánh trăng
tỏa ra đầy dòng sông và cũng có thể ánh trăng tuôn chảy thành dòng sông trăng.
Sông ở đây không bằng nước mà là từ cõi thực chảy vào cõi mơ. Chính vì thế, con
thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó
đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Hàn Mặc Tử có
những câu thơ rất hay và rất lạ về trăng như “TRời hôm nay bình yên như nguyệt
bạc, hay “Đường trăng xa ánh sáng tuyệt vời bay”
Có
thể nói, ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử đã phác họa được nét đẹp nhất của sông
Hương là vẻ huyền ảo áo thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu thơ cuôi, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng
quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi vì nhà thơ mong
muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải một tối nào khác. Chữ
“kịp” cho thấy tâm trạng phấp phỏng lo âu. Quỹ thời gian của Hàn Mặc Tử cứ vơi
dần đi. Đối với người khác trăng không về kịp tối nay thì còn có tối mai, nhưng
với Hàn Mặc Tử thì không còn tối nào khác.
Phải chăng trong tối nay đó, một buổi tối thật buồn và cô đơn, nhà thơ
có điều gì muốn tâm sự mà chỉ có trăng mới hiểu được nhà thơ? Trong hoàn cảnh
Hàn Mặc Tử bị cách biệt với thế giới bên ngoài, giường bệnh đã trở thành một sa
mạc cô đơn thì trăng vừa là hình ảnh thiên nhiên, vừa là người bạn tri âm, tri
kỉ. Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, trăng là người bạn thân thiết của
nhà thơ, và cũng cho thấy nhà thơ rất yêu xứ Huế nhưng dường như cảnh Huế, người
Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ mới phải mong muốn
tâm sự với một người bạn thân xa vời là vầng trăng- ánh trăng xoa dịu nỗi xót
xa, khi có trăng bầu bạn thì con người sẽ bớt cô đơn.
3. Khổ thơ cuối: Hoài niệm về người
thôn Vĩ- nỗi niềm mơ tưởng hoài nghi (vẻ đẹp nhân bản)
Ở
hai khổ thơ trên, ngòi bút Hàn Mặc Tử hướng đến thiên nhiên xứ Huế để bộc lộ
tâm tư, còn ở khổ thơ này, nhà thơ trực tiếp tâm sự với người xứ Huế. Qua hoài
niệm thì hình ảnh người thôn Vĩ vừa thực
vừa huyền ảo, vừa gần gũi, vừa xa vời. Trước hết, với điệp ngữ “khách đường xa”,
làm cho hình ảnh người thôn Vĩ càng khuất lấp, xa vời bởi khoảng cách thời gian
và không gian. Câu mở đầu khổ thơ như nhấn mạnh thêm nỗi xót xa, như lời thầm
tâm sự của nhà thơ với chính mình: Trước lời mời của cô gái thôn Vĩ (Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?), có lẽ nhà thơ chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế,
chỉ là người khách trong mơ mà thôi. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới suy tư ấy,
nhưng chủ yếu ở đây là mặc cảm về tình người, vì có thể hiểu hai câu giữa khổ thơ
theo hai nghĩa.
Về
nghĩa thực, xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều nên cũng nhiều sương khói, sương khói
làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của Huế, nhưng sương và khói đều màu trắng, áo
em cũng màu trắng thì chỉ thấy bóng người thấp thoáng, mờ ảo. Về nghĩa bóng,
cái sương khói làm mờ cả bóng người ấy phải chăng tượng trưng cho bao cái huyền
hoặc của cuộc đời đang làm cho tình người trở nên khó hiểu và xa vời.
Hai
khổ thơ đầu nói cái đẹp của xứ Huế, khổ cuối nói vẻ đẹp của cô gái Huế. Tả cảnh
đẹp xứ Huế, Hàn Mặc Tử đắm say đến mức nhập hòa vào cảnh; nói đến vẻ đẹp của cô
gái Huế, nhà thơ lại lùi ra xa, giữa nhà thơ với cô gái là một khoảng cách mịt
mờ sương khói. Vì thế mới có câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa
niềm thiết tha với cuộc đời: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Ai là người thôn Vĩ
hay Hàn Mặc Tử? Hỏi người hay tự hỏi mình, thể hiện tâm trạng lo âu. Ở đó nhà
thơ đã sử dụng rất tài tình đại từ phiếm chỉ ai để mở ra hai ý nghĩa của câu
thơ: Nhà thơ làm sao mà biết được tình người xứ Huế có đậm đà hay không, hay
cũng mờ ảo, dễ có chóng tan như sương khói kia; tuy vậy người xứ Huế có biết
chăng tình cảm của nhà thơ với cảnh Huế, người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà?
Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng
trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời. Trong bài thơ đại
từ “ai” xuất hiện bốn lần, nhưng chất nhân bản ở câu thơ cuối ta thấy từ tình cảm
riêng của Hàn Mặc Tử đã nói được tình cảm chung của những đôi lứa yêu nhau.
Về nghệ thuật:
Tứ
thơ là ý chính, ý lớn bao quát toàn bài thơ, làm điểm tựa cho sự vận động của cảm
xúc, suy nghĩ, tâm trạng của toàn bài thơ. Ở đây tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp
thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó mà khơi gợi liên tưởng thực- ảo và mở ra bao
nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm,
niềm hi vọng, niềm tin yêu.
Bút
pháp của bài thơ có sự hòa điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn, trữ tình. Cảnh
đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng
thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm tính chất trữ
tình.
Kết bài:
Với
những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên
tưởng, Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh phong cảnh đẹp về một miền quê đất nước và
cũng tâm cảnh thể hiện nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc Tử trong một mối tình xa
xăm, vô vọng. Đó còn là tấm lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc sống
và con người. “Một người bị giữ riêng ở một nơi,xa tất cả bạn bè thân thích và
bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn mình cùng tan rã” (Hoài Thanh) nhưng “đôi
mắt người ấy vẫn trong trẻo khi ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên, trái tim người ấy
vẫn giàu yêu thương và ước vọng” (Lê Quang Hưng). Thời gian có thể xóa nhòa tất
cả nhưng hồn thơ ấy, niềm khát sống ấy sẽ sống mãi trong lòng đọc giả chúng ta.
Comments
Post a Comment