Phân tích bài thơ “Chiều tối” (Mộ) trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
Chiều
tối (Mộ)
Hồ Chí Minh
Đề
bài: Phân tích bài thơ “Chiều tối” trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
https://youtu.be/1SGbrka23pc
Mở
bài 1:
Hồ
Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là danh nhân
văn hóa thế giới. Ngoài sự nghiệp chính trị, Người còn để lại một sự nghiệp thơ
văn phong phú với những tác phẩm đặc sắc. Trong đó không thể không nhắc tới tập
“Nhật ký trong tù” gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán, được Bác sáng tác trong thời
gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ từ mùa thu năm 1942 đến mùa
thu 1943. Chiều tối là bài thơ thứ 31 của tập thơ, viết trong cuộc chuyển lao từ
Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào một chiều cuối thu năm 1942 là bài thơ hay, tiêu biểu
cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh.
Mở
bài 2:
Nguyễn Khải từng nói:“Giá
trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng
là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng
nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói,tình cảm của người viết là khâu đầu
tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn”. Ta sẽ bắt
gặp điều này trong bài thơ Chiều tối”, bài thơ thứ 31 trong tổng số 134 bài thơ
thuộc tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.
Mở
bài 3:
Lê Quý Đôn từng
nói: “Thơ khởi phát tự lòng ta”. Đúng vậy, thơ là tiếng hát của trái tim,
là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí,
thiêng liêng… Thơ chính là
tiếng nhạc, tiếng lòng của người nghệ sĩ. Giống như “Một con ong phải bay một đoạn
đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông
hoa để làm nên một gam mật” (P. Povienko) cho đời. Bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh
là một trong những bài thơ như thế, được chưng cất từ một tâm hồn canh cánh nỗi
nước nhà của Bác khi phải lênh đênh nơi đất khách quê người. Bài thơ vừa mang vẻ
đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp hiện đại, thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống
con người. Phân tích nội dung và nghệ thuật bài thơ, chúng ta sẽ thấu hiểu điều
này.
Mở
bài 4:
Đặng
Thai Mai từng nói: “…Thơ thiên nhiên trong tập Ngục trung nhật kí thật sự có những
bài viết rất hay. Có những phác họa sơ sài, chân thực và đậm đà, càng nhìn càng
thú vị, như một bức tranh thủy mặc cổ điển. Có những cảnh lộng lẫy sinh động
như những tấm thảm thêu nền gấm chữ vàng. Cũng có những bài thơ làm cho người đọc
nghĩ tới những bức sơn mài thâm trầm, rộn rịp…”. Quả đúng như vậy, đọc bài thơ Mộ
(Chiều tối) của Hồ Chí Minh ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thơ vừa cổ
điển vừa hiện đại trong từng ý thơ như lời nhà phê bình nhận định.
Thân
bài:
1.
Hai câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên qua cảm nhận của nhà thơ.
“Quyện điểu quy lâm tầm
túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên
không”;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn
ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng
không)
Chiều tối là thời khắc cuối cùng của một
ngày và với một tù nhân như Bác, đấy cũng là chặng cuối cùng của một ngày đày
ải. Thời gian và hoàn cảnh như thế dễ gây nên trạng thái mệt mỏi, chán chường,
vậy mà ở đây cảm hứng thơ lại đến với Bác thật tự nhiên. Dường như lúc ấy người
đi ngước mắt nhìn lên bầu trời và chợt thấy cánh chim mỏi mệt bay về tổ ấm,
chòm mây chầm chậm trôi qua lưng trời- khung cảnh thiên nhiên đã được phác họa
bằng những nét chấm phá theo bút pháp cổ điển (dùng điểm nói diện). Trong cảnh
tượng ấy, tuy bài thơ không tả màu sắc mà người đọc vẫn cảm thấy rừng núi chiều
tối thật âm u, không hề gợi âm thanh mà nghe thật vắng vẻ, quạnh hiu.
Trong thơ ca thơ ca cổ điển phương Đông,
cánh chim bay về tổ, về núi rừng thường mang ý nghĩa là biểu tượng cho buổi
chiều tà: “Chim bay về núi, tối rồi” (Ca dao), “Chim hôm thoi thóp về rừng”
(Truyện Kiều), “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi/ Dặm liễu sương sa khách bước
rồi” (Bà Huyện Thanh Quan), “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” (Tràng giang-
Huy Cận),… Như vậy, cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không gian, vừa mang ý
nghĩa thời gian.
Trong thơ Bác cũng thế, có khác chăng ở
đây không phải cánh chim bay (quan sát trạng thái vận động bên ngoài của sự
vật) mà là cánh chim mỏi (cảm nhận rất sâu trạng thái bên trong của sự vật, một
cảm nhận của con người hiện đại trên cơ sở ý thức sâu sắc của cái tôi cá nhân
trước ngoại cảnh). Có thể thấy một sự gần gũi, tương đồng: Suốt một ngày bay đi
kiếm ăn, cánh chim đã mỏi và người tù cũng mỏi mệt sau một ngày vất vả lê bước
đường trường- trong ý thơ ấy có biết bao sự hòa hợp, cảm thông giữa tâm hồn nhà
thơ với cảnh vật thiên nhiên. Cội nguồn của sự cảm thông ấy chính là tình yêu
thương mênh mông của Bác dành cho mọi sự sống trên đời.
Câu thơ thứ hai: “Cô vân mạn mạn độ thiên
không” cần hiểu đúng nghĩa là “Chòm mây lẻ loi lững lờ trôi qua lưng trời” (bản
dịch đã không diễn tả được vẻ đơn độc và nhịp bay chầm chậm của chòm mây qua
những chữ cô vân mạn mạn). Câu thơ gợi nhớ thơ Thôi Hiệu “Ngàn năm mây trắng
bây giờ còn bay” (Hoàng Hạc lâu) và thơ Nguyễn Khuyến “Tâng mây lơ lửng trời
xanh ngắt” (Thu điếu).
Có điều trong thơ Bác đó không phải là áng
mây trắng ngàn năm gợi sự vĩnh hằng, cũng không phải là tầng mây lơ lửng gợi sự
không vĩnh viễn mà mang bao nỗi khắc khoải mơ hồ của con người trước cõi hư
không. Đây chỉ là một chòm mây quen thuộc trên bầu trời, nó gợi cảm rất nhiều
về cái cao rộng, trong trẻo, êm ả của một chiều thu nơi núi rừng Quảng Tây. Với
chòm mây ấy, không gian như mênh mông vô tận và thời gian như ngừng trôi. Phải
có một tâm hồn thật ung dung thư thái thì người tù mới có thể dõi theo một chòm
mây thong thả giữa bầu trời bao la. Hơn thế, chòm mây như có hồn người, như
mang tâm trạng, nó cô đơn, lẻ loi và lặng lẽ, lững lờ trôi giữa không gian rộng
lớn của trời chiều, nó mang nỗi buồn trong cảnh ngộ chia lìa: cánh chim mải
miết bay về rừng xanh, chòm mây trôi chầm chậm như ở lại giữa tầng không.
Hai câu thơ này cũng gợi nhớ hai câu thơ
trong bài “Độc tọa Kính Đình sơn” (Một mình ngồi trên núi Kính Đình) của Lí
Bạch. “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn” (Bầy chim một loạt bay cao/
Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình).
Có thể thấy, nếu cánh chim trong thơ Lí
Bạch bay mất hút vào cõi vô tận thì trong thơ Bác đó là cánh chim của đời sống
hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống: sáng bay đi kiếm
ăn, tối về rừng tìm chốn ngủ. Áng mây của Lí Bạch bay nhàn tản, gợi cảm giác
thoát tục, còn áng mây trong bức tranh cảnh chiều hôm của Bác toát lên cái vẻ
yên ả, thanh bình của đời sống thường ngày. Dù sao hai câu thơ vẫn thấm thía
nỗi buồn vì cảnh buồn và người buồn, vì cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mong
sum họp, chòm mây đơn độc trôi chầm chậm về phía trời xa gợi thân phận lênh
đênh trôi dạt nơi đất khách quê người, vì không biết tới bai giờ nhà thơ mới
được tự do như cánh chim và chòm mây trên bầu trời kia. Tuy vậy, vẻ đẹp cổ điển
của hai câu thơ đã thể hiện bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ, bởi vì nếu
không có ý chí và nghị lực, không có phong thái ung dung tự chủ và sự tự do
hoàn toàn về tinh thần thì không thể có những câu thơ cảm nhận thiên nhiên thật
sâu sắc và tinh tế như thế trong hoàn cảnh khắc nghiệt của tù đày.
2.
Hai câu cuối: Bức tranh đời sống con người
“Sơn tôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Về tấm lòng yêu đời
của Người ở hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh
tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu.
Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi
qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”.
Quả đúng như vậy, nếu trong hai câu đầu, cảnh
vật thiên nhiên hiện ra trong những nét chấm phá, phần nào mang tính chất ước
lệ cổ điển thì hình ảnh người lao động ở đây lại được gợi tả một cách cụ thể,
sinh động như một bức tranh hiện thực. Chính nét vẽ đời thường ấy làm cho bài
thơ thêm dáng vẻ hiện đại, hơn thế, trong sự hình dung về cự li, khoảng cách
với cánh chim và chòm mây (ở viễn cảnh), hình ảnh cô gái xay ngô, hình ảnh con
người (ở cận cảnh) nổi bật lên như là trung tâm của bức tranh thiên nhiên.
Bức tranh vẽ cái thời khắc đầu đêm bên xóm
núi cho thấy Bác đã quên cảnh ngộ đau khổ của mình để cảm nhận cuộc sống của
nhân dân. Nó nói lên sự quan tâm, tình thương của Bác với những người lao động
nghèo và sự làm việc mà sự làm việc nặng nhọc được biểu hiện qua âm điệu khắc
khổ của lời thơ. Câu thơ thứ ba nguyên nghĩa là “Cô gái xóm núi xay ngô” đó là
một câu miêu tả chân thực, giản dị như đời sống hàng ngày. Đến đây bài thơ từ
bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức tranh đời sống, từ cảnh trời mây, chim
muông chuyển sang cảnh con người và lại là con người lao động- đấy là xu hướng
vận động trong cấu trúc bài thơ.
Thực ra trong những bài thơ vịnh cảnh
chiều hôm nổi tiếng thời xưa cũng thấp thoáng bóng người. Lom khom dưới núi
tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (Qua Đèo Ngang- Bà Huyện Thanh
Quang). Nhưng ở đó có con người mà thiếu vắng sự sống, hình ảnh con người chỉ
tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời thiên nhiên.
Còn ở đây, trong bài thơ của Bác, hình ảnh
cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động và chính cuộc sống
lao động bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa núi
rừng chiều tối âm u, heo hút. Nó đưa lại cho người đi đường lúc chiều hôm chút
hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của con người, con
người ấy tuy vất vả mà tự do.
Những chữ “ma bao túc” ở cuối câu ba được
điệp vòng ở đầu câu bốn “bao túc ma hoàn” đã tạo nên sự nối âm liên hoàn, nhịp
nhàng như diễn tả cái vòng quay không dứt của động tác xay ngô- qua đó có thể
thấy cô gái thật chăm chỉ, kiên nhẫn, cần mẫn với công việc của chính mình.
Đáng chú ý hơn, đến câu thơ này không gian rộng mở ban đầu ngày càng được thu
nhỏ lại: từ cảnh trời mây bao la đến cảnh cô gái xay ngô và cuối cùng là cảnh
bếp lửa hồng. Đồng thời câu thơ cũng xác định rõ hơn sự vận động của thời gian,
từ bóng tối ra ánh sáng.
Nói như giáo sư Lê Trí Viễn: “Nguyên văn
không nói đến tối mà tự nhiên nói đến: thời gian trôi dần dần theo cánh chim và
làn mây, theo những vòng xoay của cối ngô, quay quay mãi, “ma bao túc…bao túc
ma hoàn…” và đến khi cối xay dừng lại thì “lô dĩ hồng”, lò đã rực hồng, tức
trời tối, trời tối thì lò rực lên”. Như vậy bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng
lên, nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, nhưng không phải
đêm tối lạnh lẽo âm u, (theo quy luật cảm nhận của người xưa: ấm ngày lạnh tối)
mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng. Nếu hình dung cả bài thơ là
một bức tranh thì chính cái chấm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa chấm lên đó đã
mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó đã làm tăng thêm niềm vui và sức
mạnh cho con người đang cất bước trên đường xa.
Cô gái, bếp lửa gợi tới cảnh gia đình, ngô
hạt xay xong, bếp đỏ hồng lại gợi tới công việc, sự nghỉ ngơi và sum họp- thấp
thoáng trong những hình ảnh ấy như có một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình
của người đang lưu lạc xa nhà, xa đất nước quê hương. Đấy là tâm hồn nhà cách
mạng đã vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để đồng cảm với niềm vui đời thường. Bài
thơ đã vận động từ ánh nắng chiều âm u, tăm tối đến ánh lửa rực hồng, ấm áp, từ
nỗi buồn đến niềm vui. Nó cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan và yêu đời
và tình yêu thương nhân dân của một con người “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”
(Tố Hữu- Theo chân Bác).
Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có
nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu xưa cũ) vừa có nét
hiện đại (bút pháp tả thực với những nét dân giã đời thường). Ở đây chủ yếu là
gợi tả chứ không phải miêu tả, cho nên tính chất cô đọng, hàm súc cao.
Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất
linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả, vừa gợi cảm (Quyện điểu, cô
vân). Biện pháp điệp vòng ở câu ba và câu bốn. Chữ hồng” được coi là chữ thần.
Hoàng Trung Thông viết: “Chữ hồng trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là
“con mắt của thơ” (thi nhãn) hoặc là nhãn tự” (chữ có mắt), nó bừng sáng lên,
nó cân lại, chỉ một chữ thôi với 27 chữ khác dầu nặng mấy đến chăng nữa. Với
chữ hồng đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy
màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng
yêu”.
Kết bài:
"Chiều tối" đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiếu sĩ Hồ Chí
Minh". Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình, có lòng
yêu thương rộng lớn, luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống con người trên đời,
tâm hồn lạc quan hướng về tương lai và ánh sáng. Chính cách nhìn biện chứng về
thời gian và sự sống, tình người tha thiết đã tạo nên giá trị to lớn cho thi
phẩm độc đáo này.
Comments
Post a Comment