Dàn ý bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

Mở bài:

Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỉ XVI, là người có uy tín và ảnh hưởng lớn đến thời đại. Thơ văn của ông là tiếng nói của tầng lớp trí thức dân tộc trong giai đoạn khủng hoảng của xã hội phong kiến, mang đạm tính triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn và phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Nhàn là bài thơ Nôm nằm trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”. Thể hiện quan niệm sống  nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Thân bài:

1. Hai câu đề:

- Nhàn là “một mai, một cuốc, một cần câu”, trở về với cuộc sống bình dị, chất phác của một “lão nông tri điền” biết đào giếng lấy nước uống và cày ruộng lấy cơm ăn. Điệp từ “một” cho ta thấy tất cả đã được chuẩn bị chu đáo và sẵn sàng, toát lên dáng vẻ ung dung tự tại của con người.

+ Những vật dụng gắn với cuộc sống vất vả của người nông dân đã đi vào trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm với cái thanh nhàn, cái thư thái riêng của con người tự tại, làm việc gì tuỳ theo sở thích cá nhân

-> Một vị quan lớn triều đình lại tìm thấy được niềm vui từ chính cuộc sống bình dị của người lao động.

2. Hai câu thực:

- Nguyễn Bỉnh Khiêm về với núi rừng quê hương là với tự nhiên, thuận theo tự nhiên, thoát khỏi vòng ganh đua của thói tục, để tâm hồn mình được an nhàn tự tại.

- “Nơi vắng vẻ”, “chốn lao xao” mang tính chất tượng trưng.

+ “Chốn lao xao” là nơi quan trường, là chốn giành giật, bon chen, luồn lọt, hãm hại lẫn nhau.

+“Nơi vắng vẻ” là nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi.

-> Như vậy sự “dại”, “khôn” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập tới ở đây là cách nói ngược, thâm trầm đầy ý vị, vừa tự tin vừa pha chút hóm hỉnh. Sự dại khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm đều xuất phát từ trí tuệ, từ quan niệm, triết lí dân gian: ở hiền gặp lành, ở ác thì gặp ác

3. Hai câu luận:

- Nhàn còn là :

+ “thu ăn măng trúc…giá” mùa nào thức ấy. Đó đều là những sản vật hết sức dân dã, mang màu sắc thôn quê chứ không phải cao lương mĩ vị gì cả. Mỗi mùa có một thú riêng.

+ Ngay cả đến sinh hoạt của con người nhàn dật cũng thật thoải mái, tự nhiên “ xuân tăm…ao”.

->Một cuộc sống đạm bạc nhưng không khắc khổ, đạm bạc mà thanh nhã, thanh nhàn, thanh cao. Đó là cuộc sống hòa hợp với tự nhiên.

4. Hai câu kết:

- Hai câu cuối gắn với tích cũ người xưa: một người nằm ngủ dưới gốc cây Hoè chiêm bao thấy mình được làm quan giàu có, tỉnh dậy thấy mình vẫn nằm dưới gốc hoè mới biết mình chiêm bao.

-> Đánh giá về thú nhàn: Nhàn không chỉ là một tấm thế sống, một niềm vui sống, nhàn còn là một quan niệm sống, một triết lí sống.

Kết bài:

- Bài thơ thể hiện quan niệm sống, triết lí sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là một cuộc sống hoà hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi tầm thường.,

- Bài thơ có ngôn ngữ tự nhiên, giản dị nhưng cũng không kém phần thâm trầm, sâu sắc.

 

Comments

Popular posts from this blog

50 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘI HAY ĐỂ VIẾT ĐOẠN VĂN, BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI THUYẾT PHỤC

Phong cách sáng tác của nhà văn là gì?

Phân tích bài thơ “Chiều tối” (Mộ) trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh