Ôn thi chuyên văn lớp 10
Ôn thi chuyên văn lớp 10
Đề bài: Bằng hiểu biết và trải nghiệm văn học của mình, em hãy bàn
luận về ý kiến dưới đây của một nhà thơ Mĩ:
“Nhà thơ là người phát ngôn, người đặt tên, người đại diện
cái đẹp... Dấu hiệu và bằng chứng của nhà thơ là ở chỗ anh ta nói được những
lời người khác chưa từng nói”.
Giải
chi tiết:
*
Yêu cầu về kĩ năng:
- Viết
đúng kiểu bài nghị luận văn học.
- Lý lẽ
rõ ràng, dẫn chứng xác thực.
- Văn
viết giàu cảm xúc, diễn đạt trôi chảy.
- Bố
cục ba phần rõ ràng, cân đối.
- Trình
bày sạch đẹp; không sai lỗi câu, từ, chính tả.
*
Yêu cầu về kiến thức: đảm bảo được các ý
sau:
1. Giới
thiệu vấn đề: Nhà thơ là người phát ngôn, người đặt tên, người đại diện
cái đẹp … Dấu hiệu và bằng chứng của nhà thơ là ở chỗ anh ta nói được những lời
người khác chưa từng nói.
2. Giải
quyết vấn đề
a.
Giải thích nhận định
- Nhà
thơ là người phát ngôn, người đặt tên, người đại diện cái đẹp: nhà thơ là
người phát hiện, người sáng tạo cái đẹp.
- Dấu
hiệu và bằng chứng của nhà thơ là ở chỗ anh ta nói được những lời người khác
chưa từng nói: phần còn lại của nhận định đã khẳng định sáng tạo văn chương
không phải là những người thợ khéo tay, chỉ làm theo một vài khuôn mẫu đưa cho,
mà người nghệ sĩ phải tìm tòi, phát hiện ra những cái mới, nói như Nam Cao
chính là: “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”
=>
Nhận định đã nói lên vai trò trách nhiệm của nhà văn đối với việc sáng tạo tác
phẩm.
- Lí
giải: Vì sao cần phải sáng tạo?
+ Trong
bất cứ lĩnh vực nào, đặc biệt là văn chương sáng tạo là điều vô cùng quan
trọng, bởi sáng tạo mới làm ra chất riêng, phong cách riêng và từ đó mới làm
nên thương hiệu của mình.
+ Nếu
văn chương chỉ là sự rập khuôn, sáo rỗng thì đó chỉ là bản sao không hoàn
chỉnh.
+ Sáng
tạo nghệ thuật là quá trình lào động vất vả, đòi hỏi sự nghiên cứu tỉ mỉ, nghiêm
túc của nhà văn. Bởi vậy, không có sáng tạo trong văn chương tức là tác phẩm đó
đã chết.
b.
Chứng minh nhận định
Ví dụ:
Sang thu – Hữu Thỉnh
* Giới
thiệu
- Tên
thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giản dị mà
tinh tế, nhẹ nhàng nhưng giàu cảm xúc, thiên về cảm nhận vẻ đẹp tự nhiên, thanh
bình của thiên nhiên đất nước và cuộc sống.
- Tác phẩm Sang thu được sáng tác gần
cuối năm 1977, thời kì đất nước vừa hòa bình, thống nhất. Bài thơ được in lần
đầu trên báo Văn Nghệ, sau đó được in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”
xuất bản năm 1991.
* Sự sáng
tạo, nét cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh về mùa thu
Trước
hết mùa thu được cảm nhận trong không gian gần và hẹp:
- Cảm
giác bất chợt đến với nhà thơ, chỉ với một từ “bỗng” mở đầu bài thơ đã khiến ta
cảm nhận thu đến thật bất ngờ, đột ngột, không hẹn trước.
- Tín
hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu thật độc đáo: Không phải từ cây ngô
đồng (Ngô đồng nhất diệp lạc/ Thiên hạ cộng tri thu); không phải từ bầu trời
xanh (Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt – Nguyễn Khuyến), từ hương cốm mới (Gió
thổi mùa thu hương cốm mới – Nguyễn Đình Thi) mà từ hương ổi thứ
hương thơm dân dã, muộc mạc, đặc trưng của các làng quê Bắc Bộ lúc cuối hạ đầu
thu. Đây chính là nét mới, sự phát hiện độc đáo và đầy tinh tế của Hữu Thỉnh.
- Trong
“gió se” gió thu se lạnh hơi khô, thứ hương thơm ấy càng như sánh lại, luồn vào
trong gió. Cách sử dụng động từ mạnh “phả” chứ không phải lan, tỏa, bay trong
gió, được gió đưa đi, đánh thức cả một không gian làng quê yên bình.
- Cùng
với hương ổi, gió se, tín hiệu sang thu còn là sương thu lãng đãng: “sương
chùng chình qua ngõ”. Những hạt sương thu ươn ướt mềm mại giăng màn qua ngõ.
Mùa thu lại về, mùa thu mang theo hương quê và sương mờ ướt lạnh. Sương được
nhân hóa qua từ láy “chùng chình” đầy tâm trạng, chùng chình như chờ đợi điều
gì đây? “Chùng chình” còn gợi màn sương li ti giăng mắc nơi đường thôn ngõ xóm.
Phép nhân hóa còn khiến ta cảm nhận màn sương như dùng dằng, như cố ý chậm lại,
nửa sang thu nửa còn như luyến tiếc mùa hạ. “Ngõ” ở đây vừa là ngõ thực, vừa có
thể là cửa ngõ sang mùa.
- Ta
thấy tác giả đã huy động mọi giác quan (khứu giác, xúc giác, thị giác) để cảm
nhận những tín hiệu báo thu sang nhưng nó rất mơ hồ, mờ ảo, nhẹ nhàng nên nhà
thơ vẫn băn khoăn tự hỏi: “Hình như thu đã về?”. Tình thái từ “hình như” với
câu hỏi tu từ khiến ta cảm nhận tâm trạng hoài nghi, cái giật mình bối rối của
nhà thơ.
=>
Khổ 1 bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã diễn tả cảm xúc ngỡ ngàng, bâng
khuâng của tác giả khi đón nhận sứ giả đầu tiên của mùa thu.
Không
chỉ vậy, ông còn cảm nhận mùa thu trong không gian dài, cao và rộng:
- Cái
bỡ ngỡ ban đầu tan biến đi nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu.
Nếu như ở khổ 1, bài Sang thu của Hữu Thỉnh, tín hiệu thu sang
mới chỉ là những gì vô hình, mờ ảo thì sang khổ 2, những dấu hiệu của mùa thu
đã rõ nét và hữu hình hơn.
- Bức
tranh Sang thu được Hữu Thỉnh miêu tả ở tầm nhìn cao hơn, xa
rộng hơn đó là không gian bầu trời, dòng sông.
- 2 câu
thơ đầu có cấu trúc đối, nhịp nhàng với những động thái trái ngược nhau nhưng
rất đặc trưng cho mùa thu: “Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã”,
thiên nhiên được nhân hóa vừa có hồn, vừa có tình.
+ Dòng
sông lúc sang thu không còn cuồn cuộn, gấp gáp như trong những ngày hè mưa lũ
mà dềnh dàng thong thả, lững lờ trôi như còn ngẫm ngợi, suy tư.
+ Đối
lập với dòng sông ấy là cánh chim, những cánh chim bắt đầu vội vã, chuẩn bị cho
chuyến di trú tránh rét hay cũng có thể nó vội vã về tổ lúc chiều hôm chứ không
còn nhởn nhơ, rong chơi như những ngày hè.
=>
Phải tinh tế lắm, Hữu Thỉnh mới nhận ra được cái “được lúc” của dòng sông và
cái “bắt đầu” của cánh chim. Ý thơ thấp thoáng cảm xúc của lòng người sang thu.
- Hai
câu thơ sau mới là bức tranh tuyệt đẹp về mùa thu, một sáng tạo của tác giả.
“Có
đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu”
+ Thu
đang ở nơi cửa ngõ của mùa vì thế đám mây mùa hạ mới chỉ vắt nửa mình. Cách sử
dụng từ “mình” khiến câu thơ thêm ý vị, nhẹ nhàng, duyên dáng. Đám mây như một
dải lụa bồng bềnh vắt nửa mình sang trời thu. Đây có thể xem là hình ảnh liên
tưởng sáng tạo, độc đáo nhất trong bài thơ
+ Thật
sáng tạo khi Hữu Thỉnh dùng một hình ảnh của không gian để diễn tả sự vận động
của thời gian. Mây là thực, còn gianh giới mùa là ảo. Cách diễn đạt này khiến
bầu trời như nhuộm nửa sắc thu để đến một lúc nào đó nó sẽ là bầu trời thu
=>
Khổ 2, hạ đã nhạt dần, thu đậm nét hơn, phép nhân hóa khiến cảnh vật và lòng
người đang bước vào mùa thu và dường như còn quyến luyến mùa hạ.
=>
Bằng cảm quan tinh tế, bằng sự nghiêm cứu nghiêm cẩn và óc sáng tạo của một
người nghệ sĩ, Hữu Thỉnh đã sáng tạo nên một bức tranh mùa thu thật đẹp và cũng
thật độc đáo. Lần đầu tiên trong văn học dân tộc, mùa thu lại được cảm nhận ở
những thứ bình dị, gần gũi mà cũng hết sức tinh tế đến vậy. Bên cạnh đó là việc
sử dụng ngôn từ đặc sắc, các kết hợp từ lạ cũng là điểm làm nên nét đẹp nổi bật
cho bài thơ.
Ví dụ:
Làng – Kim Lân
* Giới
thiệu:
- Kim
Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, thành danh từ trước cách mạng tháng 8.
Ông để lại số lượng tác phẩm không nhiều nhưng vẫn được xếp vào hàng những cây
bút xuất sắc nhất của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
- Ông
có lối viết tự nhiên, giản dị, cách miêu tả chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài
phân tích tâm lí nhân vật.
- Làng được
viết thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên tạp chí Văn
nghệ 1948. Là một trong những truyện ngắn thành công nhất của Kim Lân.
* Sáng tạo
độc đáo của Kim Lân trong tác phẩm “Làng”
- Làng của
Kim Lân viết về đề tài vô cùng quen thuộc đó là tình cảm yêu làng, yêu nước của
những con người trong thời kì cách mạng. Nhưng điều gì đã làm nên một ông Hai
đặc biệt đến vậy, khiến người ta không thể nào quên. Để lại ấn tượng sâu đậm đó
phải nói đến sự sáng tạo, công nghiên cứu tìm tòi của nhàn văn Kim Lân.
- Ông
Hai là người yêu làng tha thiết, ở nơi tản cư ông luôn khoe về cái làng giàu
tinh thần chiến đấu, với niềm tự hào sâu sắc.
- Nghe
tin làng theo giặc, lòng ông đau đớn đến tột cùng: Cổ nghẹn đắng; Da
mặt tê rân rân;…-> Đau đớn đến mức như không điều khiển được thân thể
của chính mình.
- Ông
lo lắng, xót xa, trằn trọc cả đêm: ông lo cho số phận của những đứa con sẽ bị
khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian; Cho bao nhiêu người làng ở nơi tản
cư; Cho tương lai cả gia đình.
- Ông
sợ hãi khi phải đối diện với cuộc sống xung quanh, lòng ông lúc nào cũng nơm
nớp lo sợ.
- Cái
tin ấy còn khiến ông day dứt, giằng xé dữ dội:
+ Vì:
Ông vừa yêu làng, vừa yêu nước, ông buộc phải lựa chọn giữa hai tình cảm ấy.
+ Cuộc
đấu tranh trong tâm hồn ông được biểu hiện qua cuộc nói chuyện của ông với đứa
con nhỏ:
Ông khẳng
định: “nhà ta ở làng Chợ Dầu” -> ông muốn con ghi nhớ Chợ
Dầu là quê hương, là gốc gác, không được phép quên -> là tình cảm gắn bó máu
thịt của ông Hai và của hàng triệu người Việt Nam. Ông lựa chọn “…làng
theo Tây thì phải thù” -> tình yêu nước và nhiệt tình ủng hộ kháng
chiến của ông Hai. Lựa chọn ấy khiến ông vững vàng hơn và tin rằng đồng bào,
đồng chí sẽ hiểu cho ông, cụ Hồ sẽ soi xét cho ông.
=>
Miêu tả diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, Kim
Lân đã phản ánh những nét đẹp mới trong tâm hồn người nông dân sau cách mạng.
Cùng với tình yêu làng tha thiết họ còn tràn đầy tình yêu đất nước và nhiệt
tình cách mạng.
=> Kim Lân đã miêu tả chân thực, sắc sảo diễn biến tâm trạng
ông Hai. Qua đó, nhà văn đã khám phá những nét đẹp nổi bật trong tâm hồn người
nông dân Việt Nam:
+ Chất
phác, nồng hậu, yêu thiết tha quê hương, đất nước.
+ Lòng
nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến.
=>
Ngoài ra những nét đặc sắc về nghệ thuật kể chuyện, cũng làm nên thành công cho
tác phẩm.
+ Lối
kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.
+ Ngòi
bút phân tích tâm lí sắc sảo.
+ Kết
hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại.
+ Hình
ảnh, chi tiết giàu sức gợi.
3. Tổng
kết vấn đề
- Sáng
tạo nghệ thuật là vấn đề muôn thuở của các nhà thơ, nhà văn. Chỉ có sáng tạo
mới làm nên một tác phẩm văn học đích thực.
- Điều
đó đã đặt ra yêu cầu nơi người sáng tác đó là cần lao động nghiêm túc, không
ngừng tìm tòi, đổi mới để không lặp lại chính mình và lặp lại người khác.
Comments
Post a Comment